Trấn Tây Thành

Trấn Tây Thành
鎮西城
Tỉnh của Đại Nam
1835–1841

Trấn Tây tướng quân chi ấn Trấn Tây Thành

Trấn Tây tướng quân chi ấn
Vị trí của Trấn Tây Thành
Vị trí của Trấn Tây Thành
Bản đồ hành chính Trấn Tây Thành năm 1838
Thủ đô Nam Vang
Chính phủ Quân chủ chuyên chế
Tổng đốc
 -  1835–1841 Trương Minh Giảng
Lịch sử
 -  Thành lập 1835
 -  Giải thể 1841

Trấn Tây Thành (chữ Nho: 鎮西城, chữ Khmer: ត្រាន តាយ ថាញ់) là một Trấn của nước Đại Nam nhà Nguyễn giai đoạn 1835 đến 1841. Đây là vùng lãnh thổ thuộc Đông Nam Campuchia ngày nay.

Bối cảnh

Cao Miên và Nam Kỳ Lục tỉnh năm 1860 (tên các địa danh phủ huyện của Cao Miên do nhà Nguyễn đặt được phiên âm qua tiếng Pháp): Nam Thái (An-tai F), Phù Nam (Phou-Nam), Nam Ninh (Nam-nigne), Lư An (Lou-an), La Kết (La-Kiet), Tầm Vu (Tam-vou), Nam Vang (Nora-Vang), Kỳ Tô (Ki-to), Long Tôn (Long-ton), Ngọc Bi (Ngoc-bai), Ý Dĩ (Yao-dzi), Hải Tây (Hai-tai), Hải Đông (Hai-dong), Bình Xiêm (Bigne-Xien), Phúc Lai (Pheuoc-laḯ), Chấn Tài (Kieng-tai), Biển Hồ (Ho-hai-nhi), Bát tầm bang (Bato-an boun).

Năm 1807, sau khi vua Gia Long lên ngôi, vua Chân Lạp là Ang Chan II (Nak Ong Chan, Nặc Chăn) xin thần phục triều đình Huế thay vì triều đình Xiêm như trước kia.

Sang triều Minh Mạng năm 1833, sau khi triều đình bắt tội Tổng trấn Lê Văn Duyệt, Lê Văn Khôi con nuôi ông dấy binh nổi loạn, chiếm giữ Thành Bát Quái (thuộc Sài Gòn ngày nay). Vì yếu thế, vài tháng sau Lê Văn Khôi cầu viện nước Xiêm; vua Xiêm Rama III bèn sai tướng Chao Phraya BodinPhraklang đem hàng ngàn quân thủy bộ, chia ra làm 5 đạo tiến đánh Gia Định. Đường thủy thì qua ngả Vịnh Thái Lan, đường bộ thì qua đất Chân Lạp, đồng thời thừa thế khống chế luôn Chân Lạp.

Vua Minh Mạng sai Trương Minh Giảng, Phan Văn Thúy đem quân vào dẹp loạn Lê Văn Khôi. Dựa vào thành cao hào sâu, quân Lê Văn Khôi cố thủ hữu hiệu, quan quân triều đình vây hãm suốt hai năm mới phá được thành vào tháng 9 năm 1835. Lê Văn Khôi đã bệnh chết trước đó, con ông và dư đảng bị bắt giết.

Trong khi đó, quân Xiêm đánh vào tỉnh An Giang (tháng 12, 1833), rồi tiến lên giao chiến ở rạch Củ Hủ.[1] Trận ấy quân triều đình nhà Nguyễn thắng và phản công chiếm lại đồn Châu Đốc, tỉnh An Giang, thành Hà Tiên rồi cùng lực lượng quân Chân Lạp ngược dòng Cửu Long tiến chiếm lại thành Nam Vang. Quân Xiêm bại trận phải rút khỏi Chân Lạp; triều đình Huế bèn đưa Ang Chan II trở lại ngôi vua.

Đuổi được quân Xiêm, Trương Minh GiảngLê Đại Cương lập đồn Đại Nam ở gần Nam Vang để bảo hộ Chân Lạp. Việc cai trị trong nước Chân Lạp đều do quan Việt sắp đặt, còn triều thần Chân Lạp chỉ kiêm nhiệm việc nhỏ.

Cuối năm 1834, vua nước Chân Lạp là Ang Chan II mất mà lại không có con trai, quyền cai trị trong nước về cả mấy người phiên liêu là Trà Long (Chakrey Long) và La Kiên,[2] vốn là người Chân Lạp nhưng nhận quan tước của triều đình Huế.

Năm 1835, Trương Minh Giảng tâu vua xin lập người con gái của Nặc Ông Chân là Ang Mey (Ngọc Vân) lên làm quận chúa, gọi là Chân Lạp quận chúa. Thực chất Ngọc Vân không có thực quyền.

Năm 1836, vua Minh Mạng cho đổi đất Chân Lạp thành Trấn Tây thành, chính thức sáp nhập vào Đại Nam. Ranh giới phía Tây Bắc của Trấn đến biển hồ Tonlé Sap.

Nhà Nguyễn trực trị

Quản lý hành chính

Trấn Tây Thành được chia ra làm 33 phủ và 2 huyện:[3][4]

Triều đình Huế hủy bỏ tước hiệu quan chức bản xứ của Chân Lạp và áp dụng quan chế nhà Nguyễn. Lê Đại Cương (sau được thay bằng Dương Văn Phong) được cử làm Tham tán đại thần, đặt một tướng quân, 4 chánh phó lãnh binh, cắt đặt các chức hiệp tán, đề đốc, lang trung, viên ngoại lang, giáo thụ, huấn đạo. Ở các chỗ yếu hiểm, lại đặt chức tuyên phủ, an phủ để phòng ngự.

Năm 1840, nhà vua sai Lê Văn Đức làm khâm sai đại thần, Doãn Uẩn làm phó và cùng với Trương Minh Giảng để kinh lý mọi việc ở Trấn Tây Thành, khám xét việc buôn bán, đo đạc ruộng đất, định lại thuế đinh, thuế thuyền bè buôn bán dưới sông.

Vua Minh Mạng đã cho lệnh tổng kê dân đinh nước Chân Lạp, vừa bị sáp nhập vào lãnh thổ Đại Nam thì có 970.516 người, đang khi đó thì ruộng đất lên đến 4.036.892 mẫu.[5]

Trấn Tây Thành trên bản đồ Campuchia
Lư An
Lư An
Quảng Biên
Quảng Biên
Cần Chế
Cần Chế
Nam Ninh
Nam Ninh
Lô Việt
Lô Việt
Long Tôn
Long Tôn
Ngọc Bài
Ngọc Bài
Hải Tây
Hải Tây
Tầm Vu
Tầm Vu
Hải Đông
Hải Đông
Kỳ Tô
Kỳ Tô
Phước Lai
Phước Lai
Bình Xiêm
Bình Xiêm
Khai Biên
Khai Biên
Ý Dĩ
Ý Dĩ
Nam Vang
Nam Vang
Vị trí phủ huyện Trấn Tây phỏng theo bản đồ cổ Carte de la province de Saigon 1860

Quan hệ với người bản địa

Khi nhà Nguyễn chiếm được Nam Vang, lập Ang Chan II làm vua Chân Lạp thì mấy anh em là Ang Snguon, Ang Em, Ang Duong bỏ thành chạy theo quân Xiêm sang lưu vong ở Vọng Các. Xiêm triều lợi dụng yếu tố đó tìm cách đưa họ về Chân Lạp tranh ngôi vua với Ang Chan và khôi phục ảnh hưởng của Xiêm La.

Trong khi đó ở Trấn Tây, nhà Nguyễn phong tước hiệu cho ba người con gái của Ang Chan II:

  • Ang Pen (Ngọc Biện 玉卞, Brhat Anak Angga Ang Baen) (1809-1840) làm Lư An[6] huyện quân;
  • Ang Mey (Ngọc Vân 玉雲, Samdach Brhat Anak Angga Mei Khieu) (1815-1874?) làm Cao Miên quận chúa, nối ngôi vua cha;
  • Ang Snguon (Ngọc Nguyên 玉源) (1829-1875) làm Tạp Ninh[7] huyện quân;
  • Ang Pou (Ngọc Thu 玉秋, Samdach Brhat Maha Uparajini Puyani) (1822-1878) làm Thâu Trung[8] huyện quân.

Năm 1839, Ang EmAng Duong đem 9.000 dân Khmer cùng 70 chiếc thuyền từ Battambang (vùng Xiêm chiếm đóng) về Trấn Tây (vùng Đại Nam cai quản), định xin triều đình nhà Nguyễn cho kế vị Ang Chan làm vua nhưng bị Trương Minh Giảng bắt. Triều đình cho giải Ang Em về Gia Định xét hỏi rồi đưa ra Huế giam.

Đến năm 1841, Trà Long (Chakrey Long),[9] Nhân Vu (Yumreach Hu)[10]La Kiên đến Huế mừng thọ vua Minh Mạng thì lại bị nhà vua hạch tội, bắt giam và đày ra Bắc Kỳ. Còn ở Trấn Tây thì Tham tán Dương Văn Phong khép cho Ngọc Biện (Ang Baen), chị của Ngọc Vân quận chúa, tội mưu phản với ý định trốn sang Xiêm, phải xử tử. Sau đó Trương Minh Giảng bắt Ngọc Vân và hai em gái là Ngọc Thu và Ngọc Nguyên về Gia Định giam lỏng ở đó. Các quan lại người Việt sang Trấn Tây Thành thì không ít kẻ lại làm nhiều chuyện trái phép lạm quyền, lạm thế và nhũng nhiễu dân tình.

Với thái độ tự đắc và miệt thị triều thần Chân Lạp gây nhiều bất mãn trong dân chúng, việc cai trị Trấn Tây càng ngày càng khó. Người Chân Lạp có cớ nổi loạn đánh phá khắp nơi, chống lại chính sách Việt hóa của triều đình Huế.[cần dẫn nguồn] Em trai Ang Chan là Ang Duong nhân đó dấy binh, lại được người Xiêm hậu thuẫn để can thiệp nội bộ Chân Lạp, nên quan quân ở Trấn Tây luôn phải đánh dẹp hao tổn nhiều binh lực.

Năm 1840, mấy vạn quân Xiêm kéo vào đóng ở U Đông (Oudong), vua Minh Mạng sai tướng Phạm văn ĐiểnNguyễn Tiến Lâm mang quân lên đối phó nhưng không phá được.

Triệt thoái khỏi Trấn Tây

Việc chiếm đóng Trấn Tây Thành cùng với chính sách cai trị mất lòng dân Chân Lạp của triều đình Huế là một gánh nặng cho đất nước, từ binh sĩ đến lương nhu đều hao thiệt nên đến tháng 9 năm 1841, thấy tình hình Chân Lạp bất ổn mãi, Tạ Quang Cự và các đại thần dâng sớ xin bỏ bảo hộ Chân Lạp. Vua Thiệu Trị thuận theo, truyền cho quan quân Đại Nam rút quân về giữ An Giang.[11]

Lợi dụng tình huống bỏ ngỏ Chân Lạp, vua Xiêm đưa Ang Duong lên làm vua Chân Lạp. Chiến sự kéo dài khi quân Việt và quân Xiêm tiếp tục giao chiến từ năm 1841 đến 1845. Năm 1845, triều đình Huế và Vọng Các thỏa hiệp cùng bảo hộ xứ Chân Lạp và nhận triều cống của Ang Duong.

Danh sách địa danh

Phủ huyện thuộc Trấn Tây Thành
Tên Việt Chữ Hán Địa danh tương ứng ngày nay
Nam Vang 南榮 Phnôm Pênh
Kỳ Tô/Thời Tô (Thời Thâu) 其蘇/辰蘇 (辰萩) Srey Santhor,[12] tỉnh Kandal
Tầm Đôn (Tầm Giun) 尋敦 (尋惇) giáp đất Gia Định, có lẽ là Romdoul, tỉnh Svay Rieng
Tuy Lạp (Xui Rạp, Lôi Lạp) 綏臘 giáp đất Gia Định, có lẽ là vùng mỏ vẹt Svay Rieng[13]
Ba Nam (Ba Cầu Nam) 巴南 (巴求南) Peam Ro, Peam Mean Chey, tỉnh Prey Veng
Ba Lai (Ba Lầy) 巴來 (巴淶) Baray, tỉnh Kampong Thom
Bình Xiêm (Bông Xiêm) 平暹 (凡暹) Kampong Siem, tỉnh Kampong Cham[12]
Kha Bát (Lợi Ỷ Bát) 哥捌 (利椅捌) Prey Kabbas, tỉnh Takeo
Lô Viên (Lô Yêm, Lư An) 爐圓 (盧淹, 閭安) phía tây Phnôm Pênh, Lvea Aem, tỉnh Kandal
Hải Đông (Bông Xui) 海東 (楓吹) Kampong Svay,[12] tỉnh Kampong Thom
Kim Trường 金長 giáp An Giang
Thâu Trung (Phủ Trung) 輸忠 (中府)
Ca Âu (Ca Khu) 歌謳 (歌塸)
Vọng Vân (Trung Hà) 望雲 (中河)
Hà Bình 河平
Trưng Lai (Trưng Lệ) 徵來 (征例)
Sơn Phủ 山甫
Sơn Bốc 山卜 Sambour
Tầm Vu (Mạt Tầm Vu) 尋於 (末尋於) Tây nam Phnôm Pênh, tỉnh Kampong Speu
Khai Biên 開邊 vùng duyên hải tỉnh Koh Kong[12]
Hải Tây (Phủ Lật) 海西 (撫栗) Pursat[12]
Kha Lâm (Ca Rừng) 哥林 (柯棱) giáp đất Gia Định
Thê Lạp 梯笠
Cẩm Bài 錦牌
Lô Việt 爐越 Lovek, tỉnh Kampong Chhnang
Long Tôn 龍樽 phía bắc Phnôm Pênh[12]
Quảng Biên 廣邊 Kampot[12]
Hóa Di (Ba Di) 化夷 (巴夷)
Chân Tài (Chân Lệ) 真才 (真例) đông bắc Phnôm Pênh về mạn Kampong Cham
Ý Dĩ (Phủ Phủ) 薏苡 phía bắc Kampong Chhnang
Chân Thành (Chân Thiêm) 真誠 (真占) huyện Hà Dương, An Giang
Mật Luật (Ngọc Luật) 密律 (玉律) huyện Tây Xuyên, An Giang
Ô Môn 烏門 huyện Phong Phú, An Giang
huyện Cẩn Chế 芹制 Cần Ché
huyện Cẩn Đô 芹漇 Kanhchor (Prek Chamlak)
phía nam Cần Ché

Tham khảo

  1. ^ Củ Hủ hay Cù Hu, Cổ Hổ, là con rạch chảy qua làng Tứ Điền ở vùng Chợ Thủ, nay thuộc địa bàn hai xã Long Điền A, Long Điền B, huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang.
  2. ^ Đại Nam thực lục ghi là Chưởng cơ Trà Long và Vệ uý La Kiên
  3. ^ "Quan hệ giữa Việt Nam - Campuchia -Xiêm Gia đoạn 1834-1848"
  4. ^ Đại Nam thực lục, Tập 4, chính biên kỷ thứ hai (1834-36)
  5. ^ Minh Mạng chính yếu. Chuyện đường rừng, tr. 21-22
  6. ^ Tên huyện ở Trấn Tây.
  7. ^ Tên huyện ở Hải Đông.
  8. ^ Tên huyện ở Hải Tây.
  9. ^ Bộ trưởng Chiến tranh
  10. ^ hoặc Nhâm Vu. Yomreach (ឧកញ៉ា​យោមរាជ - Nhum Rạch) - Bộ trưởng Tư Pháp
  11. ^ Đại Nam thực lục, tập 06.
  12. ^ a b c d e f g [Tập_tin:NamKy1860.jpg]
  13. ^ thượng nguồn sông Vàm Cỏ vốn có tên là sông Soai Rạp

Xem thêm

Tài liệu tham khảo

  • "Trấn Tây phong thổ ký”: The Customs of Cambodia, Chinese Southern Diaspora Studies Volume 1, 2007 Lưu trữ 2021-07-09 tại Wayback Machine
  • Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục (tập 01). Bản dịch của Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện sử học Quốc sử quán triều Nguyễn, Tổ Phiên dịch Viện Sử học phiên dịch. Nhà xuất bản Giáo Dục xuất bản năm 2002.
  • Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục (tập 02). Bản dịch của Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện sử học Quốc sử quán triều Nguyễn, Tổ Phiên dịch Viện Sử học phiên dịch. Nhà xuất bản Giáo Dục xuất bản năm 2007.
  • Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục (tập 03). Bản dịch của Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện sử học Quốc sử quán triều Nguyễn, Tổ Phiên dịch Viện Sử học phiên dịch. Nhà xuất bản Giáo Dục xuất bản năm 2007.
  • Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục (tập 04). Bản dịch của Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện sử học Quốc sử quán triều Nguyễn, Tổ Phiên dịch Viện Sử học phiên dịch. Nhà xuất bản Giáo Dục xuất bản năm 2007.
  • Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục (tập 05). Bản dịch của Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện sử học Quốc sử quán triều Nguyễn, Tổ Phiên dịch Viện Sử học phiên dịch. Nhà xuất bản Giáo Dục xuất bản năm 2007.
  • Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục (tập 06). Bản dịch của Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện sử học Quốc sử quán triều Nguyễn, Tổ Phiên dịch Viện Sử học phiên dịch. Nhà xuất bản Giáo Dục xuất bản năm 2007.
  • Quốc sử quán triều Nguyễn, Đại Nam thực lục (tập 07). Bản dịch của Trung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia, Viện sử học Quốc sử quán triều Nguyễn, Tổ Phiên dịch Viện Sử học phiên dịch. Nhà xuất bản Giáo Dục xuất bản năm 2007.