Tiếng Nhật Trung cổ
Tiếng Nhật Trung cổ (中古日本語 (Trung Cổ Nhật Bản ngữ) chūko nihongo) là một giai đoạn của tiếng Nhật được dùng từ năm 794 đến 1185, tức là vào Thời kỳ Heian. Nó là hậu duệ của tiếng Nhật cổ (上古日本語 ( (Thượng Cổ Nhật Bản ngữ))). Bối cảnhTrong khi tiếng Nhật cổ vay mượn kiểu chữ Trung Quốc để viết tiếng Nhật, trong thời kỳ Trung cổ đã xuất hiện hai kiểu chữ mới: Hiragana và Katakana. Bước tiến này đã đơn giản hóa việc viết chữ và đem đến một thời kỳ mới cho văn học Nhật Bản như những tác phẩm cổ Chuyện kể Genji, Chuyện kể Người chặt trúc, Chuyện kể Ise và nhiều câu chuyện khác.
Âm vịNhững thay đổi về lớn về âm vị chính là những đặc điểm nổi bật của thời kỳ này:
Tiếng Nhật cổ có 86 âm tiết tách biệt, sang Tiếng Nhật Trung cổ chỉ còn 66.
Sự khác nhau đáng chú ý nhất là sự lược bỏ Jōdai Tokushu Kanazukai (上代特殊仮名遣, "Kiểu Kana đặc biệt cổ"), kiểu chữ phân biệt rõ hai loại -i, -e, và -o. Trong khi giai đoạn bắt đầu lược bỏ này có thể dễ thấy ở cuối thời kỳ Tiếng Nhật cổ, nó đã hoàn toàn biến mất trong tiếng Nhật Trung cổ. Âm vị cuối cùng biến mất là /ko1/ và /ko2/. Trong thế kỷ thứ X, /e/ và /ye/ nhập thành /e/, còn đến thế kỷ XI /o/ và /wo/ thành /o/[2][3][4]. Ngữ âm họcNguyên âmPhụ âm/k, g//k, g/: [k, g] /s, z//s, z/ gồm cả [s, z], [ts, dz], và [ʃ, ʒ]. Nó có thể khác nhau tùy vào nguyên âm theo sau, giống như tiếng Nhật hiện đại. /t, d//t, d/: [t, d] /n//n/: [n] /h//h/ tiếp tục nghe tương tự như [ɸ]. Với một ngoại lệ: Đến thế kỷ thứ XI, Giữa hai nguyên âm /h/ được đọc là [w]. /m//m/: [m] /y//y/: [j] /r//r/: [r] /w//w/: [w] Cấu trúc âm tiếtNgữ phápĐộng từTiếng Nhật trung cổ thừa hưởng tất cả tám cách chia động từ từ tiếng Nhật cổ và thêm một cách mới: Hạ nhất đoạn (下一段). Chia động từ
Thân phụ âm / Thân nguyên âmĐộng từ có gốc kết thúc bằng một phụ âm được gọi là Thân phụ âm. Những thứ này được được phân thành những lớp chia sau: Tứ đoạn, Thượng nhị đoạn, Hạ nhất đoạn, Hạ nhị đoạn, Bất quy tắc SA, Bất quy tắc RA, Bất quy tắc KA, và Bất quy tắc NA. Động từ có gốc kết thức bằng nguyên âm gọi là Thân nguyên âm. Những thứ này được chia trong loại sai: Thượng nhất đoạn. Động từ bất quy tắcCó vài động từ chia bất quy tắc
Loại chia động từ cho mỗi loại được đặt theo tên Thân phụ âm cuối. Tính từCó hai loại tính từ: tính từ thường và danh tính từ. Tính từ thường được chia nhỏ làm hai loại: những dạng phó từ kết thúc bằng -ku và những dạng kết thúc bằng -siku. Điều này đã tạo ra hai nhóm chia khác nhau:
Dạng -kar- và -sikar- xuất phát từ động từ ar- "có, tồn tại". Chia phó từ (-ku hoặc -siku) đi theo su với ar-.Việc chia này tạo ra sự chia bất quy tắc RA của ar-. Kết quả -ua- đọc lướt thành -a-. Danh tính từ vẫn giữ nguyên cách chia nar- gốc và thêm tar- mới:
Nar- và tar- tạo thành từ nguyên chung. Dạng nar- là một các rút gọn của hậu tố ni và động từ bất quy tắc RA ar- "thì, là": ni + ar- > nar-. Dạng tar- là sự rút gọn của hậu tố to và động từ bất quy tắc RA ar- "thì, là": to + ar- > tar-. Cả hai xuất phát từ động từ ar-. Hệ thống chữ viếtTiếng Nhật Trung cổ được viết bằng ba cách khác nhau. Theo như lưu giữ lại sớm nhất trong Man'yōgana, chữ Trung Quốc được dùng như phiên âm vào thời kỳ Tiếng Nhật cổ. Cách sử dụng này sau đó đã cho ra đời bảng chữ cái hiragana và katakana xuất phát từ sự đơn giản hóa những ký tự Trung Quốc đi. Ghi chú
Tham khảo
Liên kết ngoài |