Phạm Hoàng Nam (sinh ngày 17 tháng 8 năm 1958), thường được biết đến với nghệ danh Thanh Nam, là một nghệ sĩ cải lương, diễn viên hài, diễn viên điện ảnh người Việt Nam. Ông nổi danh với biệt danh Hề Thanh Nam. Suốt 40 năm gắn bó với nghệ thuật, ông được công chúng mến mộ bởi hình ảnh "Hai Lúa" chất phác, giản dị và giành được vô số giải thưởng nghệ thuật lớn.[1]
Với nhiệt huyết và đam mê dành cho nghệ thuật, bên cạnh sự kính trọng, yêu thương của đồng nghiệp, khán giả khắp nơi, Thanh Nam còn được những giải thưởng vô cùng ý nghĩa: Danh hài được yêu thích nhất vào các năm 1991, 1995 và 1996 do báo Sân khấu (Hội Sân khấu TP. Hồ Chí Minh) tổ chức, Huy chương Bạc tại Hội diễn Sân khấu cải lương chuyên nghiệp toàn quốc năm 2000, Huy chương Vàng tại Liên hoan Sân khấu khu vực Nam bộ, Nam diễn viên được yêu thích nhất tại HTV Awards 2010, Nam nghệ sĩ hài được yêu thích nhất tại Cù nèo Vàng 2012... Ngoài ra, ông còn được tặng huy chương Vì sự nghiệp Văn hóa cùng nhiều bằng khen khác.[1]Ông hiện sống cùng với vợ ở Rạch Giá, Kiên Giang.
Tiểu sử
Thanh Nam tên khai sinh là Phạm Hoàng Nam, ông sinh năm 1958 tại quận Châu Thành, tỉnh Phong Dinh (nay thuộc Châu Thành, Hậu Giang). Ông sinh ra trong một gia đình nông dân lao động nghèo.[1]
Sự nghiệp
Năm 17 tuổi, ông được tuyển vào Đoàn Văn công huyện Châu Thành. Tại đây, ông được các nghệ nhân đờn ca Tư Bé, Sáu Chăm truyền dạy nhiều bài cải lương. Không lâu sau, ông chuyển về Đoàn cải lương Dạ Lan Hương. Trong một lần kép hề tên Sỹ Liêm bị bệnh, không ai đóng vai Tý theo hầu nhân vật Dương Lễ (vở Lưu Bình – Dương Lễ), ông được đóng thế, vai diễn thành công và nhận được sự đón nhận từ khán giả.[3]
Từ đó gắn cả sự nghiệp mình với những vai hài. Hai năm liên tiếp là năm 1995 và năm 1996, ông được báo Sân khấu (Hội Sân khấu Thành phố Hồ Chí Minh) bình chọn là danh hài được yêu thích nhất.[1]
Vào khoảng thập niên 80, làng hài cải lương bắt đầu xuất hiện những giọng ca "không đụng hàng". Đó là cách ca "tưng tửng" kiểu Vua vọng cổ hài Văn Hường và cách ca "sặc mùi" châm biếm, bất cần đời của danh hài Thanh Nam. Khi đó, thế hệ cải lương hài của miền Nam đều đã bước vào tuổi ngũ tuần. Đây chính là cơ hội để một anh hề trẻ như Thanh Nam có cơ hội để "tung tẩy" và thể hiện hết khả năng của mình. Với thế mạnh là các vai diễn hài hước, Thanh Nam đã bước chân vào "địa hạt" cải lương bằng những vai kép độc nhưng có chút hài.
Trong khoảng thời gian cải lương gặp khó khăn, Thanh Nam chuyển qua dòng phim truyền hình. Vẫn là ông nông dân cục mịch, chân chất, quê mùa nhưng giàu lòng thương người, Thanh Nam đã được nhiều khán giả gọi với cái tên thân thương "Hai Lúa" (cũng là một trong số những vai diễn của ông) và được các đạo diễn "đo ni đóng giày" vào những vai nặng ký về người nông dân.
Năm 1978, ông chính thức bước vào con đường diễn viên cải lương chuyên nghiệp với Đoàn cải lương Kiên Giang II. Hai năm sau, ông về Đoàn cải lương nhân dân Kiên Giang và làm tại đây đến nay. Ông được nhiều người tín nhiệm cử vào tham gia công tác quản lý, làm Phó đoàn phụ trách nghệ thuật và hiện tại là Trưởng Đoàn cải lương nhân dân Kiên Giang.
Trong sự nghiệp diễn xuất của mình, ông thể hiện khá thành công những vai ông già Nam Bộ với tính cách và ngữ điệu của các lão nông tri điền. Nhiều vai diễn thành công như ông Tư Kèn trong Quãng đời còn lại (Huy chương bạc Hội diễn Sân khấu cải lương chuyên nghiệp toàn quốc năm 2000), ông Tư Chờ trong Niềm đau gia phả (Huy chương vàng Liên hoan sân khấu khu vực Nam Bộ), Hương quản Mùi trong Tiếng chuông chùa Tam Bảo (giải B), Độ Lượng trong Tiếng thét nơi pháp trường (Bằng khen)... Ngoài ra ông còn được tặng Huy chương Vì sự nghiệp Văn hóa cùng nhiều bằng khen khác. Ở lĩnh vực hài, năm 1991, ông được xếp hàng thứ ba trong 10 danh hài được yêu thích nhất, do Báo Sân khấu Thành phố Hồ Chí Minh tổ chức với hình thức trưng cầu ý kiến độc giả. Cũng cuộc trưng cầu ý kiến này, năm 1996 ông được xếp hàng thứ tư trong 20 danh hài được yêu thích nhất.[4]
Năm 2010, ông được bầu chọn là Diễn viên chính được yêu thích nhất giải HTV Awards 2010. Năm 2012, ông tiếp tục nhận được giải Cù nèo Vàng của báo Tuổi trẻ Cười tổ chức và bình chọn.[5] Hiện ông là trưởng Đoàn nghệ thuật cải lương nhân dân Kiên Giang.[6]
Năm 1978, ông kết hôn cùng nghệ sĩ cải lương Y Phương, người cùng hoạt động ở Đoàn cải lương nhân dân Kiên Giang.[6] Bà từng đoạt được Huy chương bạc Hội diễn Sân khấu cải lương chuyên nghiệp toàn quốc năm 2000 (với vai diễn Bình trong "Quãng đời còn lại"), Huy chương bạc Liên hoan sân khấu khu vực Nam Bộ năm 2002 (với vai Bích trong "Niềm đau gia phả"), từng được đề cử danh hiệu Nghệ sĩ ưu tú cùng đợt với chồng. Ông có con gái là ca sĩ Phạm Phương Thảo.[17] Gia đình ông còn rất quan tâm tới công tác từ thiện.[2]