Đức Maria được biết đến bởi nhiều danh hiệu (Đức Bà, Đức Mẹ, Trinh Nữ Rất Thánh), các tính ngữ (Sao Biển, Nữ Vương Thiên Đàng), cầu khẩn (Theotokos, Panagia) và các tên khác (Đức Mẹ Guadalupe, Đức Mẹ Lộ Đức)...
Nhiều danh hiệu dành cho Maria mang tính tín lý hoặc giáo lý. Một số danh hiệu khác chỉ mang tính thơ ca hoặc ngụ ngôn, có ít hoặc không có giá trị chính tắc nhưng chúng tạo thành một phần của lòng sùng kính bình dân, được các giáo sĩ chấp nhận ở các mức độ khác nhau. Thêm vào đó là các danh hiệu để thể hiện Maria theo dòng lịch sử nghệ thuật.
Có thể truy xuất các danh hiệu về Maria trong Kinh Cầu Đức Bà.
Những tước hiệu đầu tiên
Tiếng Việt
Latin
Hy Lạp
Ghi chú
Maria
Maria
Mariam (Μαριάμ), Maria (Μαρία)
Tiếng Anh: Mary, tiếng Ả Rập: Maryām (مريم), tiếng Trung Quốc: (瑪利亞), Copt: Mariam, tiếng Pháp: Marie, tiếng Đức: Maria, Tiếng Ý: Maria, Do Thái-Aramaic: Maryām (מרים), tiếng Malta: Marija, Bồ Đào Nha: Maria, Nga: Marija (Мария), Tây Ban Nha: María, Syriac: Mariam,
"Người cưu mang con một của Thiên Chúa"; là một danh hiệu phổ biến trong Chính thống giáo được xác nhận lần đầu tiên trong Công đồng Êphêsô (431) nhằm chống lại lạc giáo Nestorianism.
liên quan, "Madonna" (tiếng ÝMadonna, ma "của tôi" + donna "đức bà"; từ tiếng Latinhdomina); cũng "Notre Dame" (tiếng Pháp) hay "Our Lady" (tiếng Anh), dịch nghĩa: "đức bà chúng ta"
Dựa trên hình tương Byzantine Hodegetria, thường mô tả Đức Maria đứng, mỉm cười bên trẻ Kitô; đây được coi là một trong những miêu tả sớm nhất về Đức Maria ở phương Tây[8]
Đức Trinh Nữ được mô tả trong cảnh cho đứa con sơ sinh bú. Đây là một trong những mô tả đầu tiên (nếu không phải là mô tả sớm nhất) về Đức Maria được vẽ trong Hầm mộ Priscilla vào khoảng AD 250;[9]
Đức Maria trong hình tượng một vương giả, các tín hữu bao quanh dưới sự che chở, bảo vệ của Mẹ, lần đầu tiên xuất hiện vào cuối thế kỷ 13 ở Trung Âu và Italy, mô tả này thường đi kèm với các di tích bệnh dịch hạch. [10]
Trên tay Maria ẵm xác chết của Chúa Giêsu Kitô sau khi bị đóng đinh, hình tượng này xuất hiện đầu tiên vào thế kỷ 13 ở Đức như một biểu tượng liên quan đến đau buồn; Pietàs xuất hiện ở Ý trong thế kỷ 14[11] Tác phẩm của Michelangelo (1498-1499) được coi là một kiệt tác;
Mater Amabilis
"Lòng Yêu Thương của Đức Mẹ"
thông thường, "Đức Mẹ và Con Trẻ"
Biểu tượng về Đức Maria ở phương Tây với nhiều biến thể, có quan hệ với hình tượng Byzantine Glykophilousa ("nụ hôn ngọt ngào"), Maria được mô tả trong tư thế quay nhìn ra khỏi Hài Nhi Giêsu;
^"...Byzantine inscriptions from Palestine...in the sixth [century]....fourteen inscriptions invoke "Holy Mary" (Hagia Maria), eleven more hail her as Theotokos; others add the attribution of "Immaculate" (Akeratos), "Most Blessed" (Kecharitomene), "Mistress" (Despoina), "Virgin" or "Ever-Virgin" (Aei-Parthenos)." (Frend 1984, tr. 836)Lỗi harv: không có mục tiêu: CITEREFFrend1984 (trợ giúp)
^Irênê (Adversus Haereses 5.19.1]): "And if the former did disobey God, yet the latter was persuaded to be obedient to God, in order that the Virgin Mary might become the patroness (advocata) of the virgin Eve. And thus, as the human race fell into bondage to death by means of a virgin, so is it rescued by a virgin; virginal disobedience having been balanced in the opposite scale by virginal obedience."