Tiếng gọi cuối mùa đông - Được chuyển thể thành phim Tiếng gọi bên sông (1993) Đạo diễn : Nguyễn Hữu Phần
Cái chết của bầy mối, 1991
Người đàn bà tóc trắng, 1993
Bầy chim chìa vôi
Thành phố chỉ sống 60 ngày, 1991
Vòng nguyệt quế cô đơn, 1991
Cỏ hoang, tiểu thuyết, 1992
Tiếng gọi tình yêu, 1993
Kẻ ám sát cánh đồng, 1995
Người đàn bà tóc trắng, truyện ngắn, 1996
Đứa con của hai dòng họ, truyện ngắn, 1997
Truyện ngắn Nguyễn Quang Thiều, 1998
Người cha, truyện thiếu nhi, 1998
Bí mật hồ cá thần, truyện thiếu nhi, 1998
Con quỷ gỗ, truyện thiếu nhi, 2000
Ngọn núi bà già mù, truyện thiếu nhi, 2001
Người nhìn thấy trăng thật, truyện ngắn, 2003
Người, chân dung văn học, 2008
Ba người, chân dung văn học (in chung), 2009
Có một kẻ rời bỏ thành phố, tiểu luận, 2010
Năm Tháng Ấy,2011
Đến nay, Nguyễn Quang Thiều đã xuất bản 7 tập thơ, 15 tập văn xuôi và 3 tập sách dịch. Tập thơ mới nhất của anh, Cây ánh sáng - Nhà xuất bản Hội Nhà văn 2009 đang thu hút sự chú của dư luận và giới phê bình[1]
Tiểu thuyết Kẻ ám sát cánh đồng được hãng phim truyền hình Việt Nam dựng thành bộ phim Chuyện làng Nhô (xem thêm làng Nhô) phát sóng phổ biến trên VTV trong những năm 1998
Sách dịch
Khoảng thời gian không ngủ, thơ Mỹ, 1997
Chó long, truyện ngắn Úc, 1995
Năm nhà thơ hiện đại Hàn Quốc, 2002
Làm báo
Ông được coi là người cùng với nhà văn, trung tướng công an Hữu Ước sáng lập nên hai tờ báo là tờ An Ninh Thế giới cuối tháng và Cảnh Sát Toàn Cầu[1]. [cần dẫn nguồn]
Giải thưởng
Ngoài giải thưởng Hội Nhà Văn Việt Nam năm 1993, giải A cho tập thơ Sự mất ngủ của lửa, Nguyễn Quang Thiều còn nhận được hơn 20 giải thưởng văn học khác trong và ngoài nước[2]
Đánh giá
Từ những năm 1990, thơ Việt Nam đương đại bắt đầu có sự chuyển đổi lớn về mặt thi pháp và có thể nói, Nguyễn Quang Thiều là nhà thơ đầu tiên, bằng những nỗ lực vượt bậc và tài năng xuất sắc của mình, đã xác lập một giọng điệu mới trong thơ Việt[1]
Nguyễn Quang Thiều không chỉ là nhà thơ tiên phong với trào lưu hiện đại mà còn là cây viết văn xuôi giàu cảm xúc. Trong anh không chỉ có con người bay bổng, ưu tư với những phiền muộn thi ca, mà còn có một nhà báo linh hoạt và nhạy bén[3]
Nhà thơ Nguyễn Duy: Nguyễn Quang Thiều là một tác giả đa tài, sáng tác thơ, văn xuôi, làm báo và anh từng cùng làm với tôi ở báo Văn Nghệ, thuở đó tôi còn thấy anh vẽ tranh. Nhưng ấn tượng nhất với tôi vẫn là Nguyễn Quang Thiều thi sĩ – một thi sĩ nổi bật trong làng thơ đương đại Việt Nam[3]
Nhà thơ Inrasara: Nhà thơ vừa xuất hiện đã tìm thấy giọng thơ riêng, là điều hiếm. Hiếm hơn nữa, khi giọng thơ đó có sức lan toả khá rộng. Với thế hệ đi sau ở miền Bắc, thơ Nguyễn Quang Thiều làm nên sự thể ấy[3]