Marocain (tàu frigate Pháp)

Tàu hộ tống khu trục Marocain (F-705) của Lực lượng Pháp Tự do, ngày 20 tháng 5 năm 1945
Lịch sử
Hoa Kỳ
Tên gọi USS Marocain (DE-109)
Xưởng đóng tàu Dravo Corporation, Wilmington, Delaware
Đặt lườn 7 tháng 9, 1943
Hạ thủy 1 tháng 1, 1944
Nhập biên chế 29 tháng 2, 1944
Xóa đăng bạ 14 tháng 5, 1952
Số phận Chuyển cho Pháp, 29 tháng 2, 1944
Pháp Tự do
Tên gọi Marocain (F-5)
Đặt tên theo người Maroc
Trưng dụng 29 tháng 2, 1944
Pháp
Tên gọi Marocain (F-705)
Trưng dụng 14 tháng 10, 1946
Xóa đăng bạ 1960
Số phận Hoàn trả cho Hoa Kỳ, tháng 5, 1964
Đặc điểm khái quát[1]
Lớp tàu lớp Cannon
Trọng tải choán nước
Chiều dài 306 ft (93 m)
Sườn ngang 36 ft 8 in (11,18 m)
Mớn nước 8 ft 9 in (2,67 m) (đầy tải)
Công suất lắp đặt 6.000 shp (4.500 kW)
Động cơ đẩy
Tốc độ 21 hải lý trên giờ (39 km/h)
Tầm xa
  • 10.800 hải lý (20.000 km; 12.400 mi)
  • ở vận tốc 12 hải lý trên giờ (22 km/h)
Thủy thủ đoàn tối đa
  • 15 sĩ quan
  • 201 thủy thủ
Vũ khí

Marocain (F-5/F-705) là một tàu frigate của Hải quân Pháp Tự do hoạt động trong Chiến tranh Thế giới thứ hai, và tiếp tục phục vụ cùng Hải quân Pháp sau chiến tranh. Nó nguyên được chế tạo như là chiếc USS Marocain (DE-109), một tàu hộ tống khu trục lớp Cannon của Hải quân Hoa Kỳ nhưng được chuyển giao cho Pháp theo Chương trình Cho thuê-Cho mượn (Lend-Lease) năm 1944 và đổi tên thành Marocain (F-705). Nó đã hoạt động cho đến khi chiến tranh kết thúc, và tiếp tục phục vụ trước khi hoàn trả cho Hoa Kỳ và tháo dỡ vào năm 1964.

Thiết kế và chế tạo

Lớp Cannon có thiết kế hầu như tương tự với lớp Buckley dẫn trước; khác biệt chủ yếu là ở hệ thống động lực Kiểu DET (diesel electric tandem). Các động cơ diesel đặt nối tiếp nhau dẫn động máy phát điện để cung cấp điện năng quay trục chân vịt cho con tàu. Động cơ diesel có ưu thế về hiệu suất sử dụng nhiên liệu, giúp cho lớp Cannon cải thiện được tầm xa hoạt động, nhưng đánh đổi lấy tốc độ chậm hơn.[2][3]

Vũ khí trang bị bao gồm ba pháo 3 in (76 mm)/50 cal trên tháp pháo nòng đơn có thể đối hạm hoặc phòng không, một khẩu đội pháo phòng không Bofors 40 mm nòng đôi và tám pháo phòng không Oerlikon 20 mm. Vũ khí chống ngầm bao gồm một dàn súng cối chống tàu ngầm Hedgehog Mk. 10 (có 24 nòng và mang theo 144 quả đạn); hai đường ray Mk. 9 và tám máy phóng K3 Mk. 6 để thả mìn sâu.[4][5] Con tàu vẫn giữ lại ba ống phóng ngư lôi Mark 15 21 inch (533 mm). Thủy thủ đoàn đầy đủ bao gồm 15 sĩ quan và 201 thủy thủ.[4]

USS Marocain được đặt lườn tại xưởng tàu của hãng Dravo CorporationWilmington, Delaware vào ngày 7 tháng 9, 1943; nó được hạ thủy vào ngày 1 tháng 1, 1944 và nhập biên chế cùng Hải quân Hoa Kỳ vào ngày 29 tháng 2, 1944. Con tàu được chuyển cho Hải quân Pháp Tự do cùng ngày hôm đó và đổi tên thành Marocain (F-5), đặt theo tên người Maroc, một thuộc địa cũ của Pháp ở châu Phi.[1][6]

Lịch sử hoạt động

Marocain từng tham gia vào Chiến dịch Dragoon, cuộc đổ bộ của lực lượng Đồng Minh lên miền Nam nước Pháp vào ngày 15 tháng 8, 1944.

Quyền sở hữu Marocain được Hoa Kỳ chuyển giao cho Pháp vào ngày 21 tháng 4, 1952 trong khuông khổ Chương trình Viện trợ Quân sự. Con tàu được hoàn trả cho Hải quân Hoa Kỳ vào tháng 5, 1964; tên nó được cho rút khỏi danh sách Đăng bạ Hải quân Hoa Kỳ vào năm 1965, và con tàu bị bán để tháo dỡ sau đó.[7]

Tham khảo

Chú thích

  1. ^ a b Yarnall, Paul R. (ngày 5 tháng 9 năm 2016). “Marocain (DE 109)/M.N. Marocain (F-5)”. NavSource.org. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2021.
  2. ^ Friedman 1982, tr. 18-24.
  3. ^ Rivet, Eric; Stenzel, Michael. “Classes of Destroyer Escorts”. History of Destroyer Escorts. Destroyer Escort Historical Museum. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2021.
  4. ^ a b Whitley 2000, tr. 300–301.
  5. ^ Friedman 1982, tr. 146, 418.
  6. ^ Helgason, Guðmundur. “FFL Marocain”. uboat.net. Truy cập ngày 1 tháng 7 năm 2021.
  7. ^ McCarthy, Anne; Perrella, Pat. “DEs built for Free French”. Desausa.org. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 12 năm 2021. Truy cập ngày 22 tháng 7 năm 2021.

Thư mục

Liên kết ngoài