Keith có trọng lượng choán nước tiêu chuẩn 1.400 tấn Anh (1.400 t), và lên đến 1.821 tấn Anh (1.850 t) khi đầy tải. Con tàu có chiều dài chung 323 foot (98,5 m), mạn thuyền rộng 32 foot 3 inch (9,8 m) và độ sâu của mớn nước là 12 foot 3 inch (3,7 m). Nó được cung cấp động lực bởi hai turbin hơi nướcParsons, dẫn động hai trục, tạo ra một công suất tổng cộng 34.000 mã lực càng (25.000 kW) cho phép nó đạt được tốc độ tối đa 35 hải lý trên giờ (65 km/h; 40 mph). Hơi nước cho turbine được cung cấp bởi ba nồi hơi ống nước Admiralty. Keith mang theo tối đa 390 tấn Anh (400 t) dầu đốt, đủ cho tầm hoạt động 4.800 hải lý (8.900 km; 5.500 mi) ở tốc độ đường trường 15 hải lý trên giờ (28 km/h; 17 mph). Thành phần thủy thủ đoàn bao gồm 175 sĩ quan và thủy thủ.[2]
Là chiếc đầu chiến đầu tiên của Hải quân Anh[5] được đặt tên HMS Keith, nó được đặt hàng vào ngày 22 tháng 3 năm 1929 tại xưởng tàu của hãng Vickers-Armstrongs ở Barrow, trong khuôn khổ Chương trình Chế tạo Hải quân 1928. Keith được đặt lườn vào ngày 1 tháng 10 năm 1929, hạ thủy vào ngày 10 tháng 7 năm 1930 và hoàn tất vào ngày 20 tháng 3 năm 1931 với chi phí 219.800 Bảng Anh, không tính đến các thiết bị do Bộ Hải quân Anh cung cấp như pháo, đạn dược và thiết bị liên lạc.
Con tàu hoạt động trở lại vào ngày 14 tháng 8 năm 1937 thay thế cho soái hạm của Chi hạm đội Khu trục 6, Faulknor, khi chiếc này được sửa chữa sau một vụ va chạm. Keith trải qua nhiều tháng được bố trí ngoài khơi vịnh Biscay trong thời gian cuộc Nội chiến Tây Ban Nha diễn ra, và sau đó đặt căn cứ tại Gibraltar. Con tàu quay trở về Sheerness vào ngày 4 tháng 11, và lại được đưa về lực lượng dự bị. Nó trải qua một đợt tái trang bị ngắn tại Chatham từ ngày 9 tháng 5 đến ngày 16 tháng 6 năm 1938. Sau khi hoàn tất, Keith gia nhập trở lại Chi hạm đội Khu trục 4, giờ đây trực thuộc Hạm đội Nhà. Nó được điều động đưa thủy thủ đoàn của Electra đến Chi hạm đội Khu trục 5 tại Gibraltar vào ngày 17 tháng 1 năm 1939. Con tàu tiếp tục ở lại cùng Chi hạm đội 5 cho đến tháng 4, khi quay trở về nhà; được sửa chữa tại Chatham từ ngày 11 tháng 5 đến ngày 15 tháng 7, và lại được đưa về lực lượng dự bị vào ngày 31 tháng 7.[6]
Ngày 10 tháng 5 năm 1940, Đức xâm chiếmPháp và các nước vùng trũng. Ngày hôm đó Keith và tàu chị em Boreas hộ tống các tàu tuần dương hạng nhẹArethusa và Galatea khi chúng vận chuyển vàng thỏi từ cảng Hà Lan IJmuiden đến Anh Quốc để cất giữ an toàn. Đến ngày 12 tháng 5, nó đi đến Hook of Holland thuộc Hà Lan để triệt thoái binh lính Đồng Minh.[7] Khi tàu khu trục Whitley mắc cạn vào ngày 19 tháng 5 sau khi bị hư hại do máy bay Đức tấn công, Keith đã đánh đắm nó.[9] Ngày 21 tháng 5, Keith là một trong số ba tàu khu trục đã giúp di tản 468 thường dân khỏi Pháp. Hai ngày sau, con tàu có mặt tại Boulogne-sur-Mer, đón binh lính Anh lên tàu đề triệt thoái, khi nó bị bộ binh Đức tấn công. Con tàu trúng đạn súng cối và súng máy làm thiệt mạng hạm trưởng và nhiều người khác bị thương. Keith lên đường quay về Anh ngay sau đó.[10]
Trong đêm 30-31 tháng 5, con tàu tham gia Chiến dịch Dynamo khi nó giúp triệt thoái 992 binh lính Đồng Minh đến Dover.[11] Nó quay trở lại De Panne sáng hôm sau và trở thành soái hạm của Chuẩn đô đốcFrederic Wake-Walker, chỉ huy việc triệt thoái.[12] Con tàu bị máy bay đối phương tấn công sáng hôm đó; đợt thứ nhất làm hư hại bánh lái, và trong đợt thứ hai, một quả bom xâm nhập ống khói phía sau và phát nổ trong phòng nồi hơi số 2, làm thiệt mạng mọi người tại đây và gây ra một đám cháy. Hoàn toàn mất động lực, con tàu bị chết đứng và lệnh bỏ tàu được ban ra. Keith chìm lúc 09 giờ 45 phút tại tọa độ 51°04′46″B02°26′47″Đ / 51,07944°B 2,44639°Đ / 51.07944; 2.44639. Ba sĩ quan và 33 thủy thủ thiệt mạng trong cuộc tấn công, tám sĩ quan và 123 thủy thủ được giải cứu.[7]
Tham khảo
^Whitley, M. J. (1988). Destroyers of World War Two. Cassell Publishing. ISBN1-85409-521-8.
Colledge, J. J.; Warlow, Ben (1969). Ships of the Royal Navy: the complete record of all fighting ships of the Royal Navy (Rev. ed.). London: Chatham. ISBN978-1-86176-281-8. OCLC67375475.
English, John (1993). Amazon to Ivanhoe: British Standard Destroyers of the 1930s. Kendal, England: World Ship Society. ISBN0-905617-64-9.
Friedman, Norman (2009). British Destroyers From Earliest Days to the Second World War. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN978-1-59114-081-8.
Gardner, W. J. R. (2000). The Evacuation from Dunkirk: Operation Dynamo, 26 May-ngày 4 tháng 6 năm 1940. London: Frank Cass. ISBN0-7146-5120-6.
Winser, John de D. (1999). B.E.F. Ships Before, At and After Dunkirk. Gravesend, Kent: World Ship Society. ISBN0-905617-91-6.
Đọc thêm
Lenton, H. T. (1998). British & Commonwealth Warships of the Second World War. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN1-55750-048-7.
March, Edgar J. (1966). British Destroyers: A History of Development, 1892-1953; Drawn by Admiralty Permission From Official Records & Returns, Ships' Covers & Building Plans. London: Seeley Service. OCLC164893555.