Lớp tàu khu trục F có đặc tính tương tự như Lớp tàu khu trục C và D dẫn trước vào năm 1931, nhưng có dáng lườn tàu và cầu tàu được cải tiến, được bố trí ba phòng nồi hơi thay vì hai, và pháo QF 4,7 inch (120 mm) có thể nâng đến góc 40° thay vì 30° như ở lớp trước.
Vào tháng 1 năm 1943, Fortune được tái trang bị tại một xưởng tàu tư nhân tại Anh sau khi có thỏa thuận chuyển giao nó cho Hải quân Hoàng gia Canada.
HMCS Saskatchewan
Nó được cho xuất biên chế khỏi Hải quân Hoàng gia vào ngày 31 tháng 5 năm 1943 để chuyển cho Canada, và được nhập biên chế Hải quân Hoàng gia Canada cùng ngày hôm đó dưới tên gọi HMCS Saskatchewan (H70). Công việc bàn giao chính thức hoàn tất vào tháng 6 năm 1943, và đến tháng 7, HMCS Saskatchewan gia nhập Đội hộ tống Canada 3 và được đặt làm soái hạm của đội.[4] Nó tiếp tục nhiệm vụ này cho đến hết năm 1943. Từ ngày 6 đến ngày 30 tháng 6 năm 1944, nó được bố trí cùng Đội hộ tống làm nhiệm vụ chống tàu ngầm hỗ trợ cho Chiến dịch Overlord. Saskatchewan được cho xuất biên chế khỏi Hải quân Hoàng gia Canada vào ngày 28 tháng 1 năm 1946.
Di sản
Chiếc chuông của HMCS Saskatchewan hiện đang được lưu giữ tại Bảo tàng Quân sự Vancouver Island ở NanaimoBritish Columbia.[5]
Tham khảo
Chú thích
^British and Empire Warships of the Second World War, H. T. Lenton, Greenhill Books, ISBN 1-85367-277-7
English, John (1993). Amazon to Ivanhoe: British Standard Destroyers of the 1930s. Kendal, England: World Ship Society. ISBN0-905617-64-9.
Friedman, Norman (2009). British Destroyers From Earliest Days to the Second World War. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN978-1-59114-081-8.
Lenton, H. T. (1998). British & Commonwealth Warships of the Second World War. Annapolis, Maryland: Naval Institute Press. ISBN1-55750-048-7.