Gen hoán vịGen hoán vị là các gen tương ứng nhau (gen a-len) cùng ở trên cặp nhiễm sắc thể tương đồng đổi chỗ cho nhau trong quá trình trao đổi chéo.[1], [2], [3]
- Các nhiễm sắc thể ở tế bào nhân thực thường tồn tại thành từng cặp giống nhau về hình dạng, kích thước và cả trình tự lô-cut gen, tạo thành các cặp nhiễm sắc thể tương đồng (homologous chromosomes). Ở mỗi cặp tương đồng này, thì một chiếc nhận từ bố, còn chiếc kia do mẹ truyền (hình 1.1). Lịch sử nghiên cứuCó thể cho rằng hiện tượng hoán vị gen đã biểu hiện ở thí nghiệm của Ba-tê-sơn (William Bateson), Păn-nit (Reginald Punnett) và Sau-đơ (Edith Rebecca Saunders) trên cây đậu thơm (hương đậu) về di truyền liên kết không hoàn toàn (xem chi tiết ở trang Gen liên kết). Tuy nhiên, người chính thức công bố và giải thích đầy đủ hiện tượng này là Thomas Hunt Moocgan. 1. Thí nghiệm của Moocgan
- alen B (trội) quy định thân màu xám, còn alen b (lặn) quy định thân đen; Sau khi lai tạo ra ruồi đực dị hợp thân xám, cánh dài (BV//bv), ông đã cho nó lai phân tích với ruồi cái thân đen, cánh cụt (bv//bv) thì được đời con chỉ có 2 kiểu hình:
P: ♀ BV//bv × ♂ bv//bv → F1: xám, dài + đen, cụt + xám, cụt + đen, dài. 2. Giải thích của Moocgan
Cơ sở di truyền học phân tửGiờ đây, nhờ sự phát triển của khoa học và công nghệ, người ta đã biết rõ hơn cơ chế trao đổi chéo gây ra hoán vị gen. Mỗi cặp nhiễm sắc thể tương đồng gồm một chiếc nhận từ bố và một chiếc nhận từ mẹ. Trong quá trình giảm phân phát sinh giao tử (trứng và tinh trùng), mỗi chiếc trong cặp tự nhân đôi tạo nên một nhiễm sắc thể kép có cùng nguồn gốc (từ bố hoặc từ mẹ) gọi là hai nhiễm sắc thể chị em (sister chromosomes) có chứa phân tử DNA như nhau (cái này là bản sao của cái kia). Chỉ sự trao đổi chéo các đoạn tương ứng của hai nhiễm sắc tử không chị em (non-sister chromatids) dẫn đến các đoạn DNA tương ứng mang các a-len đổi chỗ (hoán vị) nhau mới gây ra hoán vị gen. Trong tự nhiên, sự trao đổi chéo có thể chỉ xảy ra ở giới cái (như ruồi giấm mà Moocgan đã thí nghiệm), có thể chỉ xảy ra ở giới đực hoặc có thể xảy ra ở cả hai giới là tùy loài. Nơi thường xảy ra trao đổi chéo được gọi là "điểm nóng tái tổ hợp" (recombination hotspots). Cơ chế quá trình này ở các "điểm nóng tái tổ hợp" đã được nghiên cứu ở cấp độ phân tử bởi nhiều nhà khoa học nổi tiếng, chẳng hạn như hai mô hình sau. 1) Mô hình HollidayNăm 1964, Robin Holliday (1932-2014) chính thức công bố giả thuyết của mình, gọi là mô hình tái tổ hợp tương đồng (Holliday model for homologous recombination), trong đó ông cho rằng ở điểm bắt chéo của 2 nhiễm sắc thể hình thành nên một "ngã tư" của 4 chuỗi DNA ("ngã tư Ho-li-đây" hay "giao điểm Ho-li-đây", hình 3). Sau đó xảy ra sự đứt đoạn DNA ở vùng này, các a-len đổi chỗ cho nhau (hình 4).[5]
2) Mô hình DSBRDSBR viết tắt từ thuật ngữ "Double Strand Break Repair" (tạm dịch là mô hình "sửa chữa sợi kép") do Jack William Szostak (sinh năm 1952, giải thưởng Nobel 2009) và cộng sự công bố năm 1983. Theo mô hình này: khi các nhiễm sắc thể tương đồng tiếp hợp, các sợi cô-hê-xin (cohesin) hình thành, các nhiễm sắc tử (chromatide) không chị em bắt chéo nhau. Ở điểm bắt chéo xảy ra sự đứt đoạn DNA, rồi DNA được sửa chữa lại, nhờ đó các a-len đổi chỗ cho nhau (xem chi tiết ở mô hình DSBR).[6] Ngoài ra, di truyền học phân tử hiện nay còn đề xuất nhiều mô hình khác (xem trang Tái tổ hợp tương đồng). Tần số hoán vị và bản đồ di truyền
* * * Tóm lại, gen hoán vị là các gen a-len đổi chỗ cho nhau trên cặp nhiễm sắc thể tương đồng không chị em do quá trình trao đổi chéo. Quá trình này tạo ra tái tổ hợp di truyền (genetic recombination) phát sinh nhiều tổ hợp tính trạng mới, đồng thời cũng tao ra nhóm gen liên kết mới, có lợi cho quá trình tiến hóa của sinh vật. Thông qua kết quả thu được về tần số tái tổ hợp (cũng gọi là tần số hoán vị gen), mà người ta đã xác lập được bản đồ gen. Nguồn trích dẫn
|