Bài viết này cần được cập nhật do có chứa các thông tin có thể đã lỗi thời hay không còn chính xác nữa. Bạn có thể giúp Wikipedia bằng cách cập nhật cho bài viết này.
Danh sách đĩa hát của Miley Cyrus bao gồm ba album phòng thu, ba album trực tiếp, một đĩa mở rộng, mười một đĩa đơn, mười bốn video âm nhạc và sáu album nhạc phim. Trước khi bắt đầu sự nghiệp âm nhạc của mình, Miley đã tham gia vào vai chính trong bộ phim Hannah Montana trên kênh truyền hình Disney, khởi chiếu từ tháng 3 năm 2006.[1]. Qua đó, Miley đã phát hành nhiều album nhạc phim dưới tên của nhân vật trong chương trình. Sau khi nổi lên là một ngôi sao truyền hình, Miley đã ký hợp đồng với hãng đĩa Hollywood và bắt đầu sự nghiệp ca hát đơn với tên của chính mình.
Năm 2007, Miley phát hành album đôi Hannah Montana 2/Meet Miley Cyrus. Một album là nhạc phim cho mùa phát sóng thứ hai của Hannah Montana, album còn lại, Meet Miley Cyrus, chính là album phòng thu đầu tay của Miley.[2] Album đạt được nhiều thành công khi đạt vị trí quán quân bảng xếp hạng Billboard 200[3] và được Hiệp hội Ngành công nghiệp thu âm Hoa Kỳ chứng nhận ba đĩa Bạch kim.[4] Album đã cho phát hành hai đĩa đơn là See You Again, lọt vào top 10 Billboard Hot 100, và Start All Over. Năm 2008, album phòng thu thứ hai của Miley Breakout được phát hành và gặt hái được thành công khi vươn lên đứng đầu Billboard 200[3] và đưa tên tuổi của Miley đến với nhiều nước trên thế giới.
Năm 2009 là một năm rất thành công trong sự nghiệp âm nhạc của cô khi nhạc phim Hannah Montana: The Movie trở thành album thứ tư của cô vươn lên hạng nhất bảng xếp hạng khi chỉ mới 16 tuổi, nhờ đó cô trở thành người trẻ nhất trong lịch sử đạt được thành tích này. Album nhạc phim này đã phát hành đĩa đơn The Climb - đĩa đơn bán chạy thứ nhì trong sự nghiệp của Miley khi đạt hạng 4 Billboard Hot 100 và giúp cô "đá sân" sang thị trường nhạc đồng quê. Đĩa đơn này đã bán được hơn 3.1 trệu bản, là đĩa đơn đồng quê bán chạy thứ tư mọi thời đại.[5] Bên cạnh đó, đĩa mở rộng The Time of Our Lives phát hành cùng năm đạt được vị trí á quân bảng xếp hạng album tuy chỉ bán duy nhất tại chuỗi cửa hàng Wal-Mart. Album cho ra đời đĩa đơn Party in the U.S.A., chính là đĩa đơn thành công nhất tới nay của Miley với doanh số hơn 4.5 triệu bản[6], đưa cô trở thành nghệ sĩ trẻ nhất trong lịch sử có doanh số đạt trên 4 triệu bản. Với thành tích này, đĩa đơn Party in the U.S.A. trở thành một trong 20 đĩa đơn nhạc số có doanh số cao nhất trong lịch sử.[7] Với những thành công kể trên, Miley được Billboard xếp hạng 5 trong danh sách "Nghệ sĩ của năm"[8]. Năm 2010, với một hình tượng mới, doanh số của Miley đi xuống rõ rệt khi cả hai album Can't Be Tamed và album nhạc phim Hannah Montana Forever đều không đạt được nhiều thành công. Tại thời điểm tháng 4 năm 2010, Miley đã bán được 13.2 triệu album tại Hoa Kỳ [9] và gần 20 trệu album trên toàn thế giới vào tháng 6 năm 2010.[10]
Album
Album phòng thu
Danh sách các album với thứ hạng cao nhất của một số nước và các chứng nhận doanh số
A^Hannah Montana 2/Meet Miley Cyrus không xuất hiện trên Bảng xếp hạng Album Anh Quốc do không đủ điều kiện. Tuy nhiên, album đạt thứ hạng cao nhất trên Bảng xếp hạng Album tổng hợp Anh Quốc.[83]
B^Hannah Montana không xuất hiện trên Bảng xếp hạng Album Anh Quốc do không đủ điều kiện. Tuy nhiên, album đạt thứ hạng cao nhất trên Bảng xếp hạng Album tổng hợp Anh Quốc.[83]
C^Hannah Montana: The Movie không xuất hiện trên Bảng xếp hạng Album Anh Quốc do không đủ điều kiện. Tuy nhiên, album đạt thứ hạng cao nhất trên Bảng xếp hạng Album tổng hợp Anh Quốc.[84]
D^Hannah Montana 3không xuất hiện trên Bảng xếp hạng Album Anh Quốc do không đủ điều kiện. Tuy nhiên, album đạt thứ hạng cao nhất trên Bảng xếp hạng Album tổng hợp Anh Quốc.[84]
E^ "Who Owns My Heart" chỉ được phát hành ở châu Âu.[85]
^ ab“Chartverfolgung Cyrus, Miley”. Musicline.de (bằng tiếng Đức). Media Control Charts. Bản gốc lưu trữ ngày 16 tháng 8 năm 2011. Truy cập ngày 8 tháng 11 năm 2010.
^“Discography Soundtrack”. Charts.org.nz. Recording Industry Association of New Zealand. Bản gốc lưu trữ ngày 1 tháng 11 năm 2007. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2010.
^“Chart Stats - Hannah Montana”. Chartstats.com. The Official Charts Company. Lưu trữ bản gốc ngày 22 tháng 7 năm 2012. Truy cập ngày 26 tháng 2 năm 2010.
^Lamb, Bill. “Miley Cyrus - "Wrecking Ball"”. About.com. Bản gốc lưu trữ ngày 11 tháng 9 năm 2013. Truy cập ngày 8 tháng 9 năm 2013. Kiểm tra giá trị ngày tháng trong: |access-date= (trợ giúp)
^Vena, Jocelyn (ngày 26 tháng 4 năm 2010). “Miley Cyrus – Can't Be Tamed”. MTV. Viacom. Bản gốc lưu trữ ngày 4 tháng 11 năm 2013. Truy cập ngày 30 tháng 4 năm 2010.