Dũng khíDũng khí (勇氣, tiếng Anh: courage) còn gọi là lòng dũng cảm, sự can đảm là khí phách dám đương đầu với khó khăn, thử thách, nguy hiểm để làm những việc nên làm, hoặc chí khí mạnh mẽ trong chiến đấu, bất chấp sợ hãi. Những người có dũng khí to lớn được gọi là dũng sĩ, dũng khí cũng là phẩm chất cơ bản của một anh hùng.[1] Dũng khí về thể chất là lòng dũng cảm khi đối mặt với nỗi đau thể xác, khó khăn, thậm chí là cái chết hoặc bị đe dọa tử vong; trong khi dũng khí về đạo đức là khả năng hành động đúng đắn khi đối mặt với sự phản đối của quần chúng, sự xấu hổ, tai tiếng, sự chán nản hoặc mất mát cá nhân.[2] Trong truyền thống phương Đông, thần thoại Ấn Độ giáo đã đưa ra nhiều quan niệm về dũng khí, lòng dũng cảm và sự can đảm, trong đó có những ví dụ về dũng khí cả về thể chất lẫn đạo đức. Còn trong Đạo Đức kinh của Đạo giáo Trung Quốc, Lão Tử cũng đưa ra nhiều suy nghĩ về dũng khí. Quan niệm của Nho giáoTheo quan niệm của Nho giáo, dũng là một trong ba đức tính của quân tử, bao gồm nhân (仁), trí (智) và dũng (勇). Trong sách Luận ngữ, Khổng Tử có nói: "Quân tử đạo giả tam, ngã vô năng yên: nhân giả bất ưu, trí giả bất hoặc, dũng giả bất cụ". Nghĩa là: Đạo quân tử có ba điều mà ta chẳng làm được một: kẻ nhân từ thì không lo buồn, kẻ trí thức thì không nghi hoặc, kẻ dũng cảm thì không sợ hãi. Về sau, Mạnh Tử thay "dũng" bằng "lễ, nghĩa" nên ba đức tính trở thành bốn đức tính gồm: "nhân, nghĩa, lễ, trí". Các nho gia thêm một đức tính là "tín" nên có tất cả năm đức tính là: "nhân, nghĩa, lễ, trí, tín" và được gọi là ngũ thường. Đặc điểm của dũng khíNỗi sợ hãi và sự tự tin liên quan đến dũng khíTheo Giáo sư Daniel Putman, "dũng khí bao gồm sự lựa chọn có chủ ý khi đối mặt với những hoàn cảnh đau đớn hoặc sợ hãi vì một mục tiêu xứng đáng".[3] Với nhận thức này, Putman kết luận rằng "có mối liên hệ chặt chẽ giữa nỗi sợ hãi và sự tự tin"[4]. Sự sợ hãi và tự tin liên quan đến dũng khí có thể quyết định sự thành công của một hành động hoặc mục tiêu Chúng có thể được coi là những biến số độc lập về dũng khí và mối quan hệ của chúng có thể ảnh hưởng đến cách chúng ta phản ứng với nỗi sợ hãi. Sự tự tin đang được bàn đến ở đây là sự tự tin; tự tin vào việc biết các kỹ năng và khả năng của mình và có thể xác định khi nào nên chống lại nỗi sợ hãi hoặc khi nào nên chạy trốn nó. Putman nói rằng: "Lý tưởng về dũng khí không chỉ là sự kiểm soát cứng nhắc nỗi sợ hãi, cũng không phải là sự phủ nhận cảm xúc. Lý tưởng là phán đoán một tình huống, chấp nhận cảm xúc như một phần bản chất con người và chúng tôi hy vọng sẽ sử dụng tốt." -phát triển những thói quen để đương đầu với nỗi sợ hãi và cho phép lý trí hướng dẫn hành vi của chúng ta hướng tới một mục tiêu đáng giá." Theo Putman, Aristotle đề cập đến mức độ sợ hãi và tự tin thích hợp vào dũng khí. "Nỗi sợ hãi, mặc dù có thể khác nhau ở mỗi người, nhưng không hoàn toàn tương đối và chỉ thích hợp nếu nó 'phù hợp với mức độ nguy hiểm của tình huống'". Điều tương tự cũng xảy ra với sự tự tin rằng có hai khía cạnh của sự tự tin trong một tình huống nguy hiểm:
Nếu không có sự cân bằng thích hợp giữa nỗi sợ hãi và sự tự tin khi đối mặt với mối đe dọa, người ta không thể có đủ dũng khí để vượt qua nó. Giáo sư Daniel Putman tuyên bố "nếu hai cảm xúc này khác biệt thì sự thái quá hoặc thiếu sót trong nỗi sợ hãi hoặc sự tự tin có thể bóp méo sự dũng cảm". Dũng không có nghĩa là bạn không sợ hãi, mà là bạn sẵn sàng đối mặt với những thử thách phía trước. Có thể bóp méo dũng khíTheo Putman, có bốn cách có thể khiến dũng khí bị bóp méo:
Do đó, Putman xác định nỗi sợ hãi và dũng có mối liên hệ sâu sắc với nhau và chúng dựa trên những nhận thức riêng biệt: "mối nguy hiểm của tình huống", "sự xứng đáng của nguyên nhân", "và nhận thức về khả năng của một người"
Xem thêmTham khảo |