1841: Friedrich List - nhà kinh tế học người Đức đã công bố tác phẩm Das Nationale System der Politischen Ökonomie (Hệ thống Kinh tế Chính trị Quốc gia). Trong tác phẩm này, ông ủng hộ việc định canh nông nghiệp và mở rộng lãnh thổ nông nghiệp về hướng Đông, đồng thời khuyến nghị việc công nghiệp hóa kinh tế dưới quyền quản lý của nhà nước, thành lập một khối kinh tế do Đức thống trị nhằm giải quyết khủng hoảng kinh tế mà quốc gia đang đối mặt - những quan điểm này sau này được coi là tiền thân của chủ nghĩa đế quốc Quốc xã.[1]
1856: Arthur de Gobineau - quý tộc và nhà văn người Pháp đã công bố tác phẩm Essai sur l'inégalité des races humaines (Bài luận về Sự bất bình đẳng giữa các Chủng tộc Nhân loại), ông chia loài người thành ba chủng tộc: đen, trắng và vàng, và khẳng định việc các chủng tộc khác nhau có mối quan hệ chặt chẽ sẽ dẫn đến việc mất đi sự thuần túy và độc đáo của từng chủng tộc và gây rối loạn trật tự xã hội. Mặc dù ông không có tư tưởng bài trừ người Do Thái, nhưng tác phẩm của ông lại được xem là nền móng của chủ nghĩa phân biệt chủng tộc.[2]
Thập kỷ 1870: Thủ tướng Otto von Bismarck đã triển khai chính sách "Kulturkampf" với mục đích hạn chế tầm ảnh hưởng của Giáo hội Công giáo Rôma tại Đức. Trong khuôn khổ của chính sách này, ông đã đưa ra nhiều cải cách, bao gồm việc đặt yêu cầu linh mục phải được đào tạo và được phê duyệt từ chính phủ Đức, giới hạn quyền lực của Giáo hội đối với giáo dục và đòi hỏi mọi cuộc hôn nhân phải được đăng ký thông qua cơ quan chức năng.[3]
1888: Franz von Liszt - nhà cải cách pháp luật quốc tế người Đức cho rằng các dấu hiệu phạm tội đã có từ lúc bẩm sinh và không bị ảnh hưởng bởi môi trường xã hội. Ông đã đưa ra thuật ngữ nổi tiếng "Kriminalbiologie" (Sinh học tội phạm),[4] thuật ngữ này đã gây tác động đến các nhà nhân chủng học và những người ủng hộ thuyết thanh lọc sắc tộc. Lý thuyết này là cơ sở nền tảng để thực hiện hàng loạt các chính sách tiệt chủng từ năm 1933 đến năm 1945.
30 tháng 10: Adolf Hitler được chuyển đến ban nhân sự của trung đoàn, đảm nhận vai trò người đưa tin (thời điểm này hình thức truyền tin viễn thông chưa phổ biến).[6]
Nhà di truyền học Madison Grant cho xuất bản tác phẩm The Passing of the Great Race (Sự suy tàn của Chủng Tộc Vĩ Đại), tác phẩm nêu lên những đặc điểm ưu việt của chủng tộc Bắc Âu và đưa ra lời cảnh báo về sự suy tàn của chủng tộc này. Phong trào thanh lọc chủng tộc ở Đức đã nhanh chóng đón nhận và áp dụng những quan điểm trong tác phẩm.[8]
Tháng 3: Anton Drexler thành lập chi nhánh thuộc liên đoàn Freien Arbeiterausschuss für einen guten Frieden (Ủy ban Lao động Tự do vì Hòa bình Tốt đẹp) tại München.[11]
4 tháng 8: Adolf Hitler được trao Huân chương Thập tự Sắt hạng Nhất.[12]
10 tháng 1: Trận Berlin[a] (Battle for Berlin) bắt đầu.
13 tháng 1: Trận Berlin kết thúc, cuộc nổi dậy bị dập tắt.
15 tháng 1: Hai nhà lãnh đạo Liên đoàn Spartakus Karl Liebknecht và Rosa Luxemburg bị các sĩ quan Freikorps giết hại.
Tháng 3: Adolf Hitler hoàn thành nhiệm vụ giám sát tù nhân chiến tranh Nga.
3 tháng 3: Trận Berlin lần thứ hai bùng nổ khi phe cộng sản chiếm đóng Berlin[16]; Gustav Noske được trao quyền lực tối cao trong việc quản lý và điều hành chính phủ Đức.
7 tháng 3: Ủy ban Đình công Cộng sản (MKS) rút lại tuyên ngôn và đưa ra lời đề nghị hòa bình với chính phủ.
10 tháng 3: Gustav Noske ra lệnh giải tán Sư đoàn Hải quân Nhân dân. Trận Berlin lần thứ hai kết thúc.
14 tháng 4: Quân đoàn Freikorps trấn áp chủ nghĩa cộng sản tại Dresden.
16 tháng 4: Một cuộc đụng độ đã diễn ra tại Dachau giữa lực lượng chính phủ Bayern và những người cộng sản, trong đó phe cộng sản đã giành thắng lợi trước lực lượng Cộng hòa.[17]
18 tháng 4: Quân đoàn Freikorps trấn áp chủ nghĩa cộng sản tại Braunschweig.
27 tháng 4: Xung đột vũ trang giữa phái cộng sản và quân đoàn Freikorps.
2 tháng 5: Quân đoàn Freikorps tái chiếm thành phố München.
10 tháng 5: Quân đoàn Freikorps trấn áp chủ nghĩa cộng sản tại Leipzig.
12 tháng 9: Adolf Hitler gia nhập Đảng Công nhân Đức với tư cách là đảng viên thứ 55.[18][19] Chưa đầy một tuần, Hitler nhận được một tấm bưu thiếp thông báo rằng ông đã chính thức được chấp nhận là một thành viên của đảng.[20]
16 tháng 10: Hitler phát biểu bài diễn thuyết đầu tiên tại Hofbräukeller với tư cách thành viên Đảng Công nhân Đức.[21]
Phần lớn lực lượng quân đoàn Freikorps bị giải thể theo Hòa ước Versailles, một số thành viên của quân đoàn bắt đầu hoạt động ngầm.[22]
Tháng 1: Đảng Công nhân Đức (DAP) đạt 190 thành viên.[22]
Tháng 2: Ủy ban Kiểm soát Liên minh (Military Inter-Allied Commission of Control) được thành lập để đảm bảo việc giải trừ vũ khí của Đức theo yêu cầu của Hòa ước Versailles.
13 đến ngày 17 tháng 3: Chính biến Kapp nổ ra giữa phe cánh hữu và quân đoàn Freikorps.
31 tháng 3: Adolf Hitler hoàn thành nghĩa vụ quân sự.[26]
Tháng 4: Chính phủ Cộng hòa Weimar ngừng cung cấp tài chính cho quân đoàn Freikorps.
3 tháng 4: Sau thất bại của cuộc đảo chính Kapp, công nhân và cán bộ đảng Cộng sản Đức đã tiến hành cuộc khởi nghĩa Ruhr. Chính quyền Weimar không thể huy động quân đội liên bang vì phần lớn lực lượng đang phải bảo vệ chính phủ sau cuộc đảo chính. Dẫn tới việc phải nhờ đến sự giúp đỡ từ 21 quân đoàn Freikorps để đàn áp cuộc nổi dậy. Hàng nghìn người bị giết và chịu án tử hình không qua xét xử trong 5 ngày.[27]
Sau khi quân đoàn Freikorps bị cấm hoạt động, sĩ quan Hermann Ehrhardt đã thành lập tổ chức O.C.
Eugen Fischer, Erwin Baur và Fritz Lenz cho xuất bản tác phẩm Menschliche Erblichkeitslehre und Rassenhygiene (tạm dịch: Học thuyếtDi truyền Học và Thanh lọc Chủng tộc Nhân loại), tác phẩm là cơ sở nền tảng cho việc thực hiện các chính sách chủng tộc của Đảng Quốc xã và thi hành hàng loạt các chiến dịch loại bỏ những người tàn tật.[28]
Tháng 2: Adolf Hitler diễn thuyết tại München với hơn 6000 thính giả.[22]
29 tháng 7: Adolf Hitler trở thành lãnh đạo của Đảng Quốc xã với số phiếu áp đảo (533 phiếu thuận/1 phiếu chống).[29] Ủy ban điều hành của đảng bị giải tán. Anton Drexler - người thành lập lập đảng đã từ chức và trở thành "Chủ tịch Danh dự". Kể từ đó, Hitler bắt đầu tự gọi mình là "Der Führer" (Lãnh tụ).[30]
Tháng 8: Số lượng đảng viên của Đảng Quốc xã đạt mốc 3,300 người.[22]
Ủy ban Y tế Quốc gia Phổ về Thanh lọc Chủng tộc (Preussischer Landesgesundheitsrat für Rassenhygiene) tập trung nghiên cứu về ứng dụng thực tế của thanh lọc chủng tộc, thuyết tối ưu hóa gen và nhân chủng học.[31]
12 tháng 1: Adolf Hitler đã bị kết án 3 tháng tù vì hành vi gây rối vào ngày 14 tháng 9 năm 1921.
24 tháng 6: Bộ trưởng Bộ Ngoại giao Đức Walther Rathenau bị ám sát.
27 tháng 12: Nền kinh tế bị đình trệ khiến Đức không thể hoàn tất các khoản thanh toán bồi thường chiến tranh theo điều khoản của Hòa ước Versailles. Pháp và Bỉ chiếm đóng khu công nghiệp Ruhr và sa thải hàng nghìn công nhân Đức.[33]
1 tháng 9: Đại hội Đức (Deutscher Tag) được tổ chức tại Nürnberg.[36]
24 tháng 9: Thủ tướng Gustav Stresemann yêu cầu người dân trở lại làm việc và hợp tác với lực lượng chiếm đóng tại Ruhr. Điều này đã khiến những người theo chủ nghĩa dân tộc phẫn nộ vì cho rằng ông nhượng bộ quá nhiều cho Pháp - Bỉ.[37]
3 - 4 tháng 7: Đại hội tái lập Đảng Quốc xã được tổ chức tại Weimar.
1927
5 tháng 3: Lệnh cấm Hitler diễn thuyết công khai tại Bavaria được bãi bỏ.
17 tháng 8: Hiệp định thương mại Pháp - Đức được ký kết.[44]
20 tháng 8: Đại hội Đảng Quốc xã lần thứ III được tổ chức tại Nuremberg
1928
20 tháng 3: Trong cuộc bầu cử năm 1928, Đảng Quốc xã chỉ nhận được 810,217 số phiếu trên tổng số 30,753,247 phiếu bầu, tương đương 2,63%. Giành được 12 ghế trong Quốc hội Đức.[45][46]
28 tháng 9: Lệnh cấm Hitler diễn thuyết công khai tại Phổ được bãi bỏ
^Anton Weiss-Wendt and Rory Yeomans, eds., Racial Science in Hitler's New Europe, 1938–1945 (Lincoln and London: University of Nebraska Press, 2013), p. 6.
^Winkler, HA (2006) Germany: The Long Road West, Vol 2 OUP, Oxford, tr.371
^Beno Müller Hull, "Human Genetics in Nazi Germany", in Medicine, Ethics and the Third Reich, edited by John J. Michalczyk (Kansas City, MO: Sheed & Ward, 1994), pp. 27–33.
^Jennifer Llewellyn; Steve Thompson (6 tháng 10 năm 2019). “Albert Leo Schlageter”. Weimar Republic (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 6 tháng 6 năm 2023.[liên kết hỏng]
^Burleigh, Michael (2000). The Third Reich: A New History. London: Macmillan. tr. 211. ISBN9780330487573.
^Jennifer Llewellyn; Steve Thompson (28 tháng 9 năm 2019). “The Stresemann years”. Alpha History (bằng tiếng Anh). Truy cập ngày 23 tháng 5 năm 2023.[liên kết hỏng]