Curcuma harmandii
Curcuma harmandii là một loài thực vật có hoa trong họ Gừng. Loài này được François Gagnepain mô tả khoa học đầu tiên năm 1907.[2][3] Các mẫu định danh gồm 1 mẫu do L. Pierre thu thập tại Nam Kỳ ngày 24 tháng 4 năm 1867 (mẫu MNHN-P-P00292625) và 3 mẫu do François-Jules Harmand và Alexandre Godefroy-Lebeuf thu thập tại núi Pursat, Campuchia ngày 20 tháng 6 năm 1875,[4] (Gagnepain viết nhầm, tương ứng thành tháng 4 năm 1870 và ngày 20 tháng 6 năm 1856).[2] Phân bốLà một loại cây nhiệt đới bản địa miền đông, đông nam và miền trung Thái Lan, Campuchia (các tỉnh Kampong Speu và Pursat),[1][5] và miền nam Việt Nam.[2][5] Môi trường sinh sống là rừng lá sớm rụng và rừng thường xanh khô ở cao độ 100–500 m.[1] Mô tảCây cao khoảng 0,5 m. Thân rễ không mập. Lá 3, hình trứng-hình mác, 25-35 x 8–10 cm, đáy thu nhỏ, đỉnh nhọn đột ngột và phần nhọn ngắn, cả hai mặt nhẵn nhụi; cuống lá (với bẹ) dài 20–30 cm; bẹ khoảng 3, không bằng nhau, không phiến; các bẹ trên đi ngang qua cuống lá; lưỡi bẹ teo đi. Cụm hoa thò ra từ giữa các lá, có cuống dài 20–30 cm; cành hoa bông thóc lỏng lẻo, dài 12–15 cm; lá bắc 8-10, xếp thành 2 hàng, dài 5–6 cm, rộng tới 3 cm, màu xanh lục, nửa phía dưới có rãnh, tự chúng bao quanh lẫn nhau, nửa trên hơi lõm, tỏa rộng, dần thu nhỏ, đỉnh gần như nhọn. Hoa 4-6, dài 3-3,3 cm, xanh lục hoặc vàng, ẩn trong lá bắc; lá bắc con hình mác, nhỏ, dài 1-1,5 cm. Đài hoa hình ống, thanh mảnh, nhẵn nhụi, đỉnh 3 răng, răng nhỏ, tù. Tràng hoa dài gấp đôi đài hoa; các thùy hình mác. Đáy bao phấn có 2 cựa. Bầu nhụy nhẵn nhụi, vỏ ngoài mỏng. Hạt nhiều, dài 405 mm, rộng 2,5–3 mm, hình trứng-đa diện, màu vàng ánh đỏ, bóng.[2] C. harmandii hơi giống C. albiflora có ở Ceylon về cách sắp xếp các lá bắc tỏa rộng và xếp lợp lỏng lẻo; nhưng loài ở Đông Dương khác biệt ở chỗ:[2]
Chú thích
|