Cù lao Giêng
Cù lao Giêng là một cù lao nằm ở giữa sông Tiền thuộc huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang, Việt Nam. Tên gọi, lịch sửCù lao dài khoảng 12 km, rộng 7 km; và còn có nhiều tên gọi khác nhau như: Cù lao Đầu Nước[1], Dinh Châu (theo Gia Định thành thông chí), hay: Diên, Riêng, Den, Ven....Người Khmer gọi Koh Teng. Tên gọi "Cù lao Giêng" (và các biến âm của nó), được giải thích theo nhiều cách, nhưng cách giải thích được nhiều nhà nghiên cứu VN hiện nay diễn giãi, đó là chữ "Giêng" do chữ "Doanh" (hay "Dinh", là nơi đóng quân) đọc trại mà ra[2]. Tuy nhiên theo Tài liệu lưu trữ Dòng chúa Quan Phòng Cu Lao giêng (Providence Cu Lao Gieng) Lưu trữ 2020-10-08 tại Wayback Machine, tên này có thể đặt theo tên nữ tu sĩ đầu tiên tại dây tên Sœur Phanxica VO THI GIENG (1860-1947) sinh quán CU LAO TÂY. Lưu trữ 2020-10-08 tại Wayback Machine Vào khoảng năm 1700, Thống suất Nguyễn Hữu Cảnh (1650-1700) được chúa Nguyễn Phúc Chu phái vào miền Nam kinh lược và bình định đất này, thì cù lao Giêng được những di dân từ miền Trung theo chân ông Cảnh vào đây lập nghiệp. Thuở ấy, nơi đây hãy còn rất hoang sơ, nhiều rừng rậm và thú dữ [3] Năm 1757, chúa Nguyễn Phúc Khoát cho thành lập Tân Châu đạo, bao gồm phần đất của các huyện Chợ Mới, Phú Tân và thị xã Tân Châu của tỉnh An Giang, huyện Hồng Ngự, Tân Hồng và thị xã Hồng Ngự của tỉnh Đồng Tháp ngày nay. Khi ấy, Cù lao Giêng thuộc về Tân Châu đạo[4], và tướng Trương Phước Du đã cho đặt thủ sở chính tại cù lao này để coi quản đạo, đồng thời để tiếp ứng với đạo Châu Đốc và đạo Đông Khẩu (Sa Đéc)[5]. Mãi đến thời vua Gia Long, thủ sở mới dời lên vùng Tân Châu ngày nay. Sách Gia Định thành thông chí (hoàn thành khoảng năm 1820) đã mô tả đất Dinh Châu thời ấy như sau:
Vào đầu thế kỷ 18, khi nhà Nguyễn ra lệnh cấm Thiên chúa giáo gắt gao, một số người theo đạo ấy (có cả các Cha cố người Pháp) đã đến Cù lao Giêng trốn tránh, và rồi lập ra các cơ sở tôn giáo ở đây[6]. Từ năm Minh Mạng thứ 20, vùng đất cù lao Giêng bao gồm 6 thôn: Tấn Đức, Mỹ Hưng, Mỹ Chánh, Bình Đức Đông, Phú Xuân và Tân Phước vốn cùng thuộc tổng An Bình, huyện Đông Xuyên, phủ Tuy Biên, tỉnh An Giang. Sau khi chiếm hết được các tỉnh Nam Kỳ vào năm 1867, thực dân Pháp dần xóa bỏ tên gọi tỉnh An Giang cùng hệ thống hành chính phủ huyện cũ thời nhà Nguyễn, đồng thời đặt ra các hạt Thanh tra. Cù lao Giêng (tổng An Bình) lúc này thuộc hạt Thanh tra Long Xuyên. Ngày 5 tháng 1 năm 1876, hạt Thanh tra Long Xuyên đổi thành hạt tham biện Long Xuyên, các thôn đổi thành làng. Ngày 1 tháng 1 năm 1900, tất cả các đơn vị hành chính cấp tỉnh ở Đông Dương điều thống nhất gọi là "tỉnh", trong đó có tỉnh Long Xuyên. Cù lao Giêng thuộc tổng An Bình, tỉnh Long Xuyên. Năm 1917, cù lao Giêng thuộc tổng An Bình, quận Chợ Mới, tỉnh Long Xuyên. Ngày 1 tháng 1 năm 1920, tách ấp Tấn An của làng Tấn Đức hợp với ba làng Bình Đức Đông, Phú Xuân, Tân Phước thành lập làng Bình Phước Xuân. Ngày 7 tháng 11 năm 1939, ba làng Tấn Đức, Mỹ Hưng, Mỹ Chánh bị giải thể để thành lập hai làng mới là Tấn Mỹ và Mỹ Hiệp. Từ đó, cù lao Giêng chỉ còn ba làng là Tấn Mỹ, Mỹ Hiệp và Bình Phước Xuân cùng thuộc tổng An Bình, quận Chợ Mới, tỉnh Long Xuyên. Sau năm 1956, các làng gọi là xã. Ngày 22 tháng 10 năm 1956, tỉnh Long Xuyên hợp nhất với tỉnh tỉnh Châu Đốc thành một tỉnh mới là tỉnh An Giang cho đến nay. Từ năm 1957, cù lao Giêng thuộc tổng An Bình, quận Chợ Mới, tỉnh An Giang; đồng thời vẫn gồm 3 xã cũ trực thuộc. Sau năm 1965, cấp tổng bị giải thể, các xã trực thuộc quận. Sau ngày 30 tháng 4 năm 1975, quận Chợ Mới đổi thành huyện Chợ Mới thuộc tỉnh Sa Đéc, đến tháng 2 năm 1976 huyện Chợ Mới lại trở về thuộc tỉnh An Giang như cũ cho đến ngày nay. Hiện nay, cù lao Giêng gồm có 3 xã là Tấn Mỹ, Mỹ Hiệp và Bình Phước Xuân cùng thuộc huyện Chợ Mới, tỉnh An Giang. Di tíchTrên địa bàn cù lao Giêng có rất nhiều di tích lịch sử, tôn giáo,... đáng chú ý có:
Ngoài ra nơi đây còn có nhà thờ cổ của dòng tu Phan-xi-cô, đền tưởng niệm Thánh Phêrô Đoàn Công Quí và Thánh Emmanuel Lê Văn Phụng, phần mộ của nhà cách mạng Ung Văn Khiêm... Thông tin thêm
Ảnh
Chú thích
Liên kết ngoài
|