Bút thuận
Bút thuận (筆順) chỉ thứ tự nét trước sau khi viết một chữ Hán hoặc các hệ thống chữ viết khác phái sinh từ chữ Hán. Nét bút là hoạt động di chuyển của bút (hoặc phấn, vân vân) trên giấy (hoặc bảng, vân vân). Hán tự được sử dụng ở nhiều dạng thức khác nhau trong các văn bản tiếng Trung, tiếng Nhật, tiếng Triều Tiên và trước đây là tiếng Việt. Phương pháp bút thuận cũng được gắn với các loại chữ tượng hình khác như chữ hình nêm.[1] Quy tắc cơ bảnChữ Hán về bản chất là các chữ biểu ý và được vẽ bởi các nét bút trải qua hàng thiên niên kỷ các quy tắc cơ bản được đúc kết và phát triển theo thông lệ. Mặc dù vẫn có những khác biệt nhỏ giữa cách viết Hán tự ở các nước, nhưng nguyên lý chung vẫn như nhau, đó là chữ được viết phải nhanh gọn, tay ít di chuyển nhưng lại viết được nhiều nét bút nhất. Bút thuận giúp cải thiện tốc độ viết chữ, dễ nhìn và dễ đọc. Ý niệm này có phần nào đúng khi mà trong quá trình học chữ Hán, chữ mới sẽ càng ngày càng phức tạp hơn. Do phương pháp bút thuận cũng góp phần hỗ trợ việc học và ghi nhớ chữ Hán, người học thường được dạy về nó và khuyến khích tuân theo từ những ngày đầu tiếp xúc với Hán tự. Vĩnh tự bát pháp (永字八法) sử dụng chữ Vĩnh 永 để hướng dẫn tám quy tắc cơ bản nhất khi viết khải thư. Quy tắc bút thuận cơ bản gồm có: từ trên xuống dưới, từ trái qua phải, ngang trước sổ sau, phẩy trước mác sau, nét ngang dưới cùng viết sau, nét sổ dọc xuyên qua các nét ngang viết sau cùng, từ ngoài vào trong, vào trước đóng sau, giữa trước hai bên sau, các bộ 辶 (sước), 廴 (dẫn), 凵 (khảm) viết sau cùng,... Tuy nhiên, cũng có các trường hợp bất quy tắc. Bút thuận thông thườngDưới đây là một số chữ Hán mà người viết ở bất cứ khu vực nào cũng đều viết với thứ tự nét bút như nhau, có thể được xem là bút thuận thông thường.
Trong một số trường hợp, tự dạng chữ Hán có chút khác biệt khi nó được sử dụng làm một chữ độc lập so với khi xuất hiện với tư cách bộ thủ. Khi đó, nét bút cũng khác biệt:
Khác biệt với bút thuậnDo những khác biệt trong tập quán địa phương hoặc trường phái thư pháp mà có một số chữ có sai khác trong bút thuận. Do đó, không có một phương pháp bút thuận tuyệt đối, chính xác và thống nhất đối với mọi chữ Hán. Ngược lại, bút thuận chỉ có tính tương đối chính xác theo khu vực và theo từng thời điểm. Dưới đây là bút thuận cho những chữ như vậy. Khác biệt giữa các trường phái thư phápDo có những điểm khác biệt giữa các trường phái thư pháp, những chữ dưới đây có thứ tự nét bút khác nhau: Chữ 方 (phương)
Chữ 門 (môn)
Chữ 门 (môn)
Khác biệt vùng miềnVì cách viết các thể chữ hoặc thứ tự nét của Thư pháp Đông Á không cùng thời, bút thuận có thể có chút khác biệt. Chữ Hán Đài Loan hiện đại, Nhật Bản và Hàn Quốc, Trung Quốc đại lục hiện đại (Chữ Hán giản thể từ 1956 về sau) đều có quy định bút thuận riêng biệt. Đài Loan, Hồng Kông là "điểm (chấm), hoành (ngang), trực (dọc), phách (phẩy), mác (xiên)". Trung Quốc đại lục là "Hoành (ngang), thụ (dọc), phách (phẩy), điểm (chấm), chiết (gãy/cong)". Cùng một chữ Hán, có thể có nhiều cách viết khác nhau. Dưới đây là một vài ví dụ. Chữ 戈 (qua)
Chữ 王 (vương), 玉 (ngọc), 主 (chủ), 生 (sinh), 青 (thanh), 麦 (mạch), 隹 (chuy)Chữ 田 (điền), 由 (do), 角 (giác)Chú ý:Các chữ 甲 (giáp), 申 (thân), 用 (dụng), 甪 (lục), 角 (giác), 甫 (phủ), 羊 (dương), 丰 (phong): nét thẳng ở giữa xuyên thẳng xuống dưới, bất luận cổ kim hay trong ngoài Trung Quốc, nét thẳng giữa này đều là nét sau cùng. Đây là quy tắc bất biến. Chữ 有 (hữu), 右 (hữu)
Chú ý:chữ 有 (hữu), 右 (hữu) hai nét đầu có nguồn gốc từ chữ 又 (hựu) trong cổ văn,do đó bút thuận truyền thống và bút thuận của Nhật Bản là như vậy. Nhưng chữ 左 (tả) hai nét đầu có nguồn gốc từ chữ 𠂇 trong cổ văn, bất luận cổ kim hay trong ngoài Trung Quốc. Chữ 皮 (bì)
Khác biệt giữa các trường phái và khu vựcCó vài từ tuỳ theo trường phái thư pháp khác nhau, quy định khu vực khác nhau mà bút thuận đều có sự khác biệt, ví dụ như: Chữ 必 (tất)
Chữ 艹 (thảo)Chữ 臣 (thần), 區 (âu, khu), 叵 (phả), 医 (y), 匿 (nặc)Tham khảo
|