Lãnh thổ Barcelona được tạo ra bởi Hoàng đế Charlemagne sau khi ông chinh phục vùng đất phía bắc sông Ebro. Những vùng đất này, được gọi là Marca Hispanica, được phân chia thành nhiều tiểu quốc khác nhau, trong đó Bá tước Barcelona cai quản nhiều vùng đất cùng một lúc, cuối cùng trở thành thế lực hùng mạnh nhất của khu vực.
Khi các lãnh thổ trở thành vùng đất nằm dưới quyền thế tập của các dòng họ, thì mối quan hệ của vùng đất với các lãnh chúa người Frank được nới lỏng, đặc biệt là sau khi vương triều Nhà Capet thay thế cho vương triều Nhà Carolus.
Vào thế kỷ XII, các lãnh thổ tiến hành liên minh với Vương quốc Aragon, toàn bộ lãnh thổ rộng lớn nằm dưới quyền cai trị duy nhất của một quân chủ. Năm 1258, Vua Pháp đã từ bỏ thẩm quyền phong kiến của mình đối với vùng đất này trong Hiệp ước Corbeil.
Ông cũng đồng thời là hầu tước xứ Gòtia trong khoảng thời gian làm công tước của xứ Barcelona. Sau đó, ông tiếp tục làm bá tước xứ Girona và Bésalu, rồi thống đốc các bá quốc xứ Rasès và Conflent. Là người Gothic, ông là con của thánh Guillaume xứ Toulouse. Ông tham gia 2 lần viễn chinh của quân đội người Frank vào Barcelona và đánh chiếm được thành phố này. Ông sau đó gần như bị xử tử hình vì để xứ Pamplona và Basque chia đôi (lúc này hai vùng còn nằm trong cùng một thể chế chính trị), nhưng Louis Mộ Đạo giảm nhẹ hình phạt xuống lưu đày ở Berà[1] nơi ông bị lưu đày cho đến lúc chết.
Là một đầy tớ trung thành của Charlermagne, ông được chọn vì gần như ở không tham gia tranh chấp quyền lực ở vùng biên trấn Tây Ban Nha. Ông cũng đồng thời cai trị luôn các xứ Bésalu, Girona và Osona. Ông chỉ huy cuộc tấn công quân Hồi giáo theo yêu cầu của bá tước xứ Aachen và đã tiến quân tới tận sông Segre.
Ông được Louis Mộ Đạo bổ nhiệm làm Bá tước của Barcelona và xứ Girona[2] thay cho Rampon năm 826, sau gần vài tháng không có người cai trị vùng. Ông là một người thân Frank và kẻ thù của người Hồi giáo, và vì vậy đi ngược lại quyền lợi của các quý tôc người Visigoth. Ông còn là công tước xứ Septimania từ tháng 6 năm 828. Bị phế truất vì xúi giục Pépin I, một trong những đứa con của Louis Mộ Đạo, nổi loạn. Ông bị tống giam vào nhà ngục tại Trier.
Lên ngôi sau khi Bernard bị tống giam. Trong thời gian ông trị vì, Galí I Asnar đã chiếm Pallars và Ribagorça từ tay ông. Mất đột ngột khi đang trên đường gặp Pépin I xứ Aquitaine.[4]
Lên ngôi sau khi Berenger mất. Ông tiếp tục khiến những quý tộc Goth địa phương, những người vốn đã ủng hộ Berenger trước đó, không hài lòng. Từ năm 841 trở đi, ông thường xuyên vắng mặt do tham gia tranh chấp trong đế quốc. Những tử tước trong vùng lúc này lập thành hội đồng và tạm quyền cai trị thay ông. Năm 842, ông nổi loạn chống Charles Hói và đến đầu năm 844 thì ông bị chặt đầu theo lệnh của ông này.
Được bổ nhiệm bởi Charles Hói, ông kiêm luôn việc cai quản Girona, phiên hầu quốc Gothia, Osona, Besalú, Narbonne, Agde, Besiers, Lodeva, Melguelh and Nimes, Ông tiến hành hòa đàm cùng với người Hồi giáo vào tháng 12 năm 847, khoảng 6 năm sau khi họ tổ chức tấn công bá quốc Barcelona. Mất một cách tự nhiên vào năm 848, cùng năm với người anh (hoặc em trai) Sunyer.
Ông đồng thời là Bá tước xứ Toulouse (844-849) và Empúries (848 - 850)[7]. Ông đồng thời cũng chiếm luôn vị trí của cha mình, vốn trước đó là bá tước các xứ Gothia và Septimania cũng trong cùng khoảng thời gian này. Ông tự mình liên minh với người Hồi giáo[8] trong cuộc xung đột với nhà vua Pháp ở xứ Aquitaine. Thất bại, ông quay về Barcelona và bị quý tộc nơi đây giết chết.[8]
Ông cũng đồng thời là bá tước xứ Troyes, hầu tước xứ Gòtia, bá tước xứ Rosselló và Empúries. Không rõ là ông chết vì lý do gì, nhưng có khả năng là ông bị giết trong cuộc càn của người Hồi giáo vào Barcelon (851-852).[9][10]
Ông tham gia cùng với Charles Hói giải quyết vấn đề về người đứng đầu nền quân chủ tại xứ Aquitaine. Thời kỳ ông cai trị cũng đánh dấu sự tàn phá nghiêm trọng của người Hồi giáo vào Barcelona năm 865
Là thành viên nhà Humfriding, ông được bổ nhiệm làm người đứng đầu nền quân chủ ở Xứ biên trấn Hispania từ năm 854 - 858. Năm 858, ông tiến hành hòa đàm với người Moor (việc này được thực hiện một lần năm 861, khi người Moor thất bại trong việc vây hãm Barcelona) và tiến quân vào xứ Gaul cùng với người Pháp. Sau đó, ông tiếp tục nhận được các xứ Autun và Burgundy. Ông bị cách chức năm 862 vì không ủng Hộ Charles Con, con của Charles Hói, lên ngôi vua xứ Aquitance. Tuy vậy, ông vẫn kiểm soát vùng thêm 2 năm nữa, khi ông không còn đồng minh mặc dù đã kiểm soát được thành Tolouse, và bị buộc chạy sang Ý.
Lúc đầu ông được trao cho các bá quốc Auvergne và Autun (864). Trong thời gian cai trị, ông tiến hành cải tổ chính quyền, tiếp tục can dự đến xứ Aquintance, sau đó tham gia nổi loạn chống lại Charles Hói và người kế vị sau đó là Louis Kẻ nói lắp (có lẽ vì việc bổ nhiệm vị Giám mục mới là Frotario) cho đến lúc mất.
Sau này tước hiệu được chuyển giao cho nhà Trástramara theo Thỏa ước Casp năm 1402. Vì vậy đây trở thành tước hiệu đi kèm của của các vua chúa của nhà này và sau là của nhà Harburg khi gia tộc này (và sau là một nhánh của gia tộc) cai trị Tây Ban Nha. Sắc lệnh Nueva Planta (giữa các năm 1707 và 1716) ban hành hợp nhất các lãnh thổ trên toàn Tây Ban Nha (trong đó có vương quyền Aragon) vào xứ Castilla. Ở Barcelona, việc này được thực hiện năm 1716 và vì vậy tước hiệu không còn được nhắc đến với tư cách là một tước hiệu cha truyền con nối đối với các vị vua Tây Ban Nha hiện đại nữa.
Chiến tranh của Những người gặt (Reaper's War), 1641-1659
Trong Chiến tranh Những người gặt, Hội đồng Nhà nước (Tiếng Catalan: Junta de Braços) của xứ Catalunya tuyên bố Louis XIII là công tước Barcelona vào ngày 21 tháng 1 năm 1641 với tên gọi Louis I.[56][57] Tên gọi vẫn được duy trì trong suốt cuộc chiến cho đến tận Hòa ước Pyrénées ký kết vào ngày 7 tháng 10, 1659 khi người Pháp từ bỏ xứ Catalunya để đổi lấy sát nhập một phần Bắc Catalunya vào trong lãnh thổ Pháp.
Mercè Morales Montoya; Jaume Sobrequés Callicó (tháng 4 năm 2011). Comtes, Reis, Comtesses i Reines de Catalunya (bằng tiếng Catalan) . Barcelona. ISBN9788415267249.Quản lý CS1: ngày tháng và năm (liên kết)
Dhuoda (1978). The Handbook of Dhuoda (bằng tiếng Catalan). Megariotis tái bản. Geneva: Edouard Bondurand.
Armengol, Montse (tháng 10 năm 2012). “El fundador de la nissaga catalana”. Sàpiens (bằng tiếng Catalan) (Số 121). ISSN1695-2014.
Rotger, Agnès (tháng 10 năm 2012). “La gran dama del tron català”. Sàpiens (bằng tiếng Catalan) (Số 121). ISSN1695-2014.
Cheyette, Fredric L. (1988). “The "Sale" of Carcassonne to the Counts of Barcelona (1067-1070) and the Rise of the Trencavels”. Speculum. The University of Chicago Press. 63 (4 tháng 10).
Albertí, Elisenda (2007). Dames, reines, abadesses, 18 personalitats femenines a la Catalunya medieval. Albertí Editor. ISBN978-84-7246-085-0.
Morby, John Edwin (1978). “The Sobriquets of Medieval European Princes”. Tạp chí Lịch sử Canada. 13:1.
Benito, Pere (2017). “An Intense but Stymied Occitan Campaign”. Trong Sabaté, Flocel (biên tập). The Crown of Aragon: A Singular Mediterranean Empire. Brill. tr. 92–124.
Heygate, Catherine (2013). “Marriage Strategies among the Normans of Southern Italy in the Eleventh Century”. Trong Stringer, Keith J.; Jotischky, Andrew (biên tập). Norman Expansion: Connections, Continuities and Contrasts. Routledge. tr. 165–186.
Sanmartí Roset, Montserrat (tháng 10 năm 2010). Catalan from the IX to the XIX (bằng tiếng Catalan). ISBN9788497663830.
Bensch, Stephen P. (1995). Barcelona and Its Rulers, 1096-1291. Cambridge University Press.
Sabaté, Flocel biên tập (2017). The Crown of Aragon: A Singular Mediterranean Empire. Brill.
Doran, John; Smith, Damian J. (2008). Pope Celestine III (1191-1198): Diplomat and Pastor. Ashgate.
Smith, Damian J (ngày 20 tháng 5 năm 2010). Crusade, Heresy and Inquisition in the Lands of the Crown of Aragon (c.1167-1276). Brill. ISBN9004182896.
Crawley, Charles (2012). “Teresa Gil de Vidaure”. Foundation for Medieval Genealogy. Truy cập ngày 8 tháng 2 năm 2012.
Laszlovzky, Jozsef (2016). “Local tradition or European patterns? The grave of Queen Gertrude in the Pilis Cistercian Abbey”. Trong Jaritz, Gerhard; Szende, Katalin (biên tập). Medieval East Central Europe in a Comparative Perspective: From Frontier Zones to Lands in Focus. Routledge. tr. 81–98.
Segura Barreda, José (1868). Morella y sus aldeas: geografía, estadística, historia, tradiciones, costumbres. Morella: Bản in của F. Javier Soto. OCLC758219198.
Linehan, Peter (2011). Spain, 1157–1300: A Particle Inheritance. Wiley-Blackwell.
Martínez Díez, Gonzalo (2007). Alfonso VIII, rey de Castilla y Toledo (1158-1214) (bằng tiếng Tây Ban Nha). Estudios históricos La Olmeda. ISBN8497043278.
Previté-Orton, Charles William (1952). The Shorter Cambridge Medieval History. I The Twelfth Century to the Renaissance. Cambridge at the University Press.
Yarza, Joaquin (1996). “Maria de Navarra y la ilustración del Libro de horas de la Biblioteca Nazionale Marciana”. Libro de horas de la reina María de Navarra (bằng tiếng Tây Ban Nha). Barcelona: Moleiro. ISBN8488526202.
Almeida Rodrigues, Ana Maria de Seabra (2013). “Un destin interrompu: Aliénor de Portugal, brève reine d'Aragón”. Les femmes dans l’espace nord-méditerranéen. Etudes Roussillonnaises. Revue d'Historie et d'archéologie Méditerranéennes (bằng tiếng Pháp). XXV. Canet-en-Rousillon: Éditions Trabucaire. tr. 89–96. ISBN978-2-84974-168-9.
McGlynn, Sean; Woodacre, Elena biên tập (2014). The Image and Perception of Monarchy in Medieval and Early Modern Europe. Cambridge Scholars Publishing.
Earenfight, Theresa (2016). “Partners in Politics”. Trong Earenfight, Theresa (biên tập). Queenship and Political Power in Medieval and Early Modern Spain. Routledge.